Một số phương pháp triển khai bài giảng nhằm phát huy tối đa việc học tập chủ động, sáng tạo của học viên

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong giảng dạy, điều mà bất kỳ giảng viên nào cũng trăn trở là làm thế nào để triển khai bài giảng hiệu quả nhất, để người học nhận “được” nhiều nhất. Có rất nhiều hoạt động và ý tưởng mà ta có thể kết hợp trong nhiều phương pháp truyền thống và hiện đại, nhằm phát huy tối đa việc học tập chủ động, sáng tạo của học viên.
Cơ sở xác định phương pháp triển khai bài giảng

Thành công chỉ có thể đạt được khi bài giảng được triển khai dựa trên nhiều yếu tố. Trong đó, quan trọng nhất là phải dựa trên cơ sở hiểu rõ về phong cách học tập của học viên.  Biết được phong cách học tập của học viên, giảng viên sẽ có cơ sở để xây dựng, chọn lựa phương pháp tiếp cận, phương pháp triển khai và các hoạt động cụ thể, sao cho phù hợp để tạo điều kiện cho học viên tiếp cận, lĩnh hội bài giảng dễ dàng và hiệu quả nhất.

Chẳng hạn, khi nắm rõ nguyên tắc học tập của học viên, giảng viên sẽ chọn lựa các phương pháp giảng dạy hỗ trợ cho những nguyên tắc đó, và sẽ sử dụng các hoạt động để phản ánh nguyên tắc đó. Nếu sử dụng phương pháp và hoạt động không phù hợp với phương pháp tiếp cận thì chính giảng viên bị kéo ra khỏi định hướng tự nhiên của mình. Khi đó giảng viên có thể phải thay đổi phương pháp, hoạt động, hoặc là phải thay đổi quan điểm, thái độ của mình trong phương thức tiếp cận.

Chính vì vậy, để xác định được phương pháp triển khai bài giảng một cách hiệu quả nhất, giảng viên cần phải hiểu rõ, xác định và thống nhất được mối quan hệ giữa phong cách học tập của học viên với phương pháp tiếp cận, phương pháp triển khai và hoạt động của giảng viên.

Ảnh minh họa
Cấu trúc của bài giảng

Một bài giảng thông thường có 3 phần: phần giới thiệu (mở đầu); phần khai triển (phần giữa); phần kết luận (kết thúc).

Phần mở đầu.

Phần mở đầu của bài giảng cần phải hướng tới các mục đích như: thu hút sự chú ý, tham gia của người học; gắn kết với những hiểu biết, kinh nghiệm đã có của người học; giới thiệu mục tiêu của bài giảng; giới thiệu cấu trúc nội dung của bài giảng; kích thích động cơ học tập. Cụ thể:

Thu hút sự chú ý, tham gia

Giảng viên có nhiều cách để thu hút sự chú ý, tham gia của người học. Có thể nêu lên một số sự kiện – mang tính thời sự – về chủ đề này; có thể đưa một vì con số thống kê; chiếu một hình ảnh, clip hấp dẫn có liên quan, viết một câu nửa chừng lên bảng; xử lý một loạt các phiếu hỏi; hỏi một câu hỏi có vấn đề hoặc hỏi mẹo…

Với cách như vậy, giảng viên đã khơi dậy sự tò mò về cái mà mình sẽ trình bày trong phần còn lại của bài giảng. Song hãy chú ý đừng sa đà vào việc này mà gây ra tác dụng ngược lại. Ngay cả việc sử dụng yếu tố hài hước, dí dỏm cũng cần phải cân nhắc sử dụng một cách khéo léo, nếu không sẽ gây phản cảm và không được cả lớp chú ý. Trường hợp nếu giảng viên không chắc chắn yếu tố hài hước của mình có gây hiểu lầm hoặc gây tâm lý không thoải mái không thì tốt nhất không nên dùng nó.

Gắn kết với những hiểu biết, kinh nghiệm của học viên

Người học rất có thể đã từng được học những nội dung mà ta mang đến cho họ hiện thời. Cũng có thể học viên đã có kiến thức, kỹ năng hoặc kinh nghiệm tự tích lũy về vấn đề đó. Vì vậy, cần chú ý nối kết, liên hệ, khơi gợi những gì đã có ở học viên để nối với bài giảng.

Nêu mục tiêu bài giảng (kết quả đầu ra của bài giảng)

Khi giới thiệu, giảng viên cần thể hiện rõ ràng: người học cần phải làm gì và cuối buổi học, họ có thể biết được, làm được điều gì mới. Việc thông tin kết quả buổi học có thể hiển thị trước lớp để học viên có thể đối chiếu, liên hệ tới chúng trong suốt quá trình học tập của mình.

Giới thiệu nội dung bài giảng

Học viên muốn biết về việc họ sẽ làm gì trong suốt bài giảng để họ có thể chủ động, chuẩn bị tâm thế cho việc tiếp nhận. Việc tóm tắt nội dung như vậy khuyến khích các học viên tập trung vào bài giảng, vào thông tin sắp tới, vì họ thấy được lợi ích hay nhìn rõ được động cơ của mình.

Kích thích động cơ học tập

Phần lớn các học viên khi đến tham dự buổi giảng sẽ tự hỏi: “Mình có cần biết điều này không?”. Họ sẽ tự trả lời câu hỏi của mình. Và có thể nhiều học viên không cảm thấy được động cơ khuyến khích, do họ không thấy sự phù hợp. Nhưng giảng viên có thể đóng vai trò chủ yếu trong việc kích thích và khuyến khích họ sử dụng nguồn lực nội tại của mình. Có thể áp dụng một số cách khuyến khích như: thể hiện cho học viên thấy thái độ nhiệt tình của mình với chủ đề; miêu tả về lợi ích của chủ đề này với thực tiễn công việc của học viên; liên hệ chủ đề này với các lĩnh vực, chủ đề môn học khác hay các phương hướng nghiên cứu và chức nghiệp trong tương lai; sử dụng các hoạt động thúc đẩy kỹ năng nghe, nhớ và hiểu (đố chữ, câu đố…).

Với hàng loạt nội dung cần thể hiện như vậy, cần dành cho phần mở đầu độ dài là bao nhiêu thời gian? Đó là câu hỏi chung thường được đặt ra với các giảng viên trẻ, mới. Thực tế, không có một quy tắc chung nào cho độ dài của phần mở đầu. Tuy vậy, có thể định lượng một bài giảng 50 phút thì nên dành cho mở đầu 5 – 10 phút. Nếu đây là nội dung mới hay là buổi đầu tiên của lớp học thì có thể dành cho mở đầu thời gian nhiều hơn.

Tóm lại, phần mở đầu bài giảng, bằng cách nào đó, giảng viên phải “phá vỡ tảng băng”, thu hút sự chú ý tham gia của học viên, định hướng vào bài giảng và khuyến khích, thúc đẩy động cơ học tập của họ.

Phần khai triển

Trong một bài giảng, cái đích hướng tới là học viên được lĩnh hội một thông tin mới hoặc được phát triển một kỹ năng mới. Tức là, bài lý thuyết cung cấp thông tin, bài thực hành thì tạo kỹ năng. Mỗi loại bài giảng này sẽ có một cấu trúc khác nhau cho phần khai triển.

Bài giảng kỹ năng

Với bài giảng kỹ năng, phần khai triển thường tiến hành với việc chứng minh kỹ năng mới và sau đó thực hành.

Cần chuẩn bị sẵn sàng tất cả những thứ cần thiết, tùy việc thực hành cần gì: giấy bút, các công cụ, linh kiện bổ sung, phụ tùng làm sạch, quần áo an toàn cho học viên sử dụng, trang thiết bị an toàn, bản sao về các thể thức vận hành tiêu chuẩn của cơ quan, các giấy tờ, sách hướng dẫn về an toàn cho nhiệm vụ này…

Phương pháp trình bày có chứng minh (làm mẫu)gồm các bước như sau:

Bước 1. Giới thiệu tổng quan về toàn bộ kỹ năng

Trong phần tổng quan, cần phải nói với học viên là sẽ có một phần làm mẫu theo tốc độ thường và một phần theo tốc độ chậm, sau đó sẽ tới lúc các học viên thực hành.

giảng viên cần đưa học viên tới khu vực làm mẫu. Cho họ quan sát kỹ và cảm thấy yên tâm là họ sẽ thực hiện nếu như thích hợp. Hãy tìm ra điều mà các học viên đã biết về nhiệm vụ này và họ có thể làm được. Điều đó rất quan trọng. Nếu như họ có thể làm được một phần của công việc thì không cần làm lại thao tác đó, tránh lãng phí thời gian. Còn nếu kỹ năng này là một bộ phận của quá trình dài hơn thì nó có thể giúp cho họ biết một cách ngắn gọn điều gì xảy ra trước và sau.

Bước 2. Làm mẫu theo tốc độ bình thường

Cần bảo đảm rằng các học viên nhìn thấy những gì giảng viên làm. Tránh bất kỳ hành động nào không thuộc về kỹ năng mà mình đang làm mẫu. Chỉ thực hiện, không nói, để bảo đảm không cản trở quá trình quan sát của học viên. Trong bước này, cần đặc biệt chú ý bảo đảm an toàn, vệ sinh trong tất cả các phần cần thiết của kỹ năng này.

Bước 3. Làm mẫu chậm và mô tả

Làm lại từng bước một cách chậm rãi và nói rõ với học viên về những điều họ cần phải biết về từng bước khi giảng viên làm. Ở bước này, cần chỉ cho học viên: các từ đặc biệt được dùng; những đồ vật nào được kiểm tra vào những lúc nhất định của quá trình; tất cả các yêu cầu về an toàn; các âm thanh hay biểu hiện cho thấy là công việc tiến triển tốt; các ám hiệu, dấu hiệu cần lưu ý.

Giảng viên nên khuyến khích học viên đặt câu hỏi, và trả lời một cách dễ hiểu, đầy đủ tất cả các câu hỏi đó với thái độ tích cực. Giảng viên cũng cần tạo điều kiện cho học viên được tiếp xúc trực tiếp để cảm nhận máy móc, nếu như điều đó giúp cho học viên hiểu rõ thêm mà không gây nguy hiểm gì. Nếu có thể, hãy mô hình hóa, quy trình hóa bằng các bảng biểu đơn giản để học viên hiểu rõ hơn và có thể dễ dàng ghi nhớ, lưu lại.

Bước 4. Kiểm tra sự hiểu biết của học viên

Hãy yêu cầu các học viên mô tả bằng lời những gì xảy ra ở từng bước của quá trình này. Vào thời điểm này, có thể yêu cầu một số học viên tự tin, tích cực tự kiểm tra các kỹ năng của họ. Có thể tạo điều kiện cho những học viên chưa tự tin được thực hành thêm lần nữa. Những học viên này sẽ chia sẻ với cả lớp về chi tiết từng bước họ thực hiện.Trong trường hợp không có học viên nào tình nguyện kiểm tra (thực hành) thì giảng viên có thể tự làm lại bước đó một lần nữa và yêu cầu các học viên nói lại những gì cần phải làm trong từng bước đó. Giảng viên sẽ đáp ứng những đề nghị của học viên. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng vậy, giảng viên cần từ chối nếu việc mà học viên đề nghị là nguy hiểm. Trường hợp này, nên mô tả hay cho học viên thấy điều gì nguy cơ xảy ra nếu thực hiện lời đề nghị đó. Và tất nhiên, cũng nên biết khen học viên khi họ làm tốt những yêu cầu, chỉ dẫn của mình.

Bước 5. Quan sát học viên thực hành

Giảng viên cần giúp cho các học viên của mình cảm thấy nhẹ nhàng và cố bảo đảm rằng họ có kinh nghiệm ngay từ lần thực hành đầu tiên. Hãy luôn phản hồi tích cực, tránh gây sợ hãi, tổn thương cho học viên, bằng cách khuyến khích tập trung cao độ và từng bước kiểm tra việc thực hiện của họ. Hãy sửa bất kỳ sai sót nào của học viên và thúc đẩy họ một thái độ học tập từ những sai sót. Trong bước này, chú ý nhắc lại từng bước chậm rãi với các cá nhân nếu họ cần thêm sự giúp đỡ.

Bước 6. Kiểm tra kỹ năng này đã thực hiện chuẩn chưa, đạt yêu cầu chưa

Giảng viên hãy hỏi học viên xem họ tự đánh giá họ làm tốt như thế nào. Hãy tạo điều kiện cho họ tự phản hồi về sự thành thục kỹ năng của họ.

Giảng viên cần xem lại các tiêu chuẩn chất lượng. Nếu có một sản phẩm mẫu cụ thể thì có thể cho học viên xem trực tiếp, chỉ ra cho họ thấy một người thành thục thì cần phải thực hiện như thế nào. Đến đây, giảng viên cũng có thể nói với học viên của mình về các khó khăn chung và cách thức để giải quyết, vượt qua và nói với họ về những điểm cần lưu ý, những sự cố, bất thường có thể xảy ra và cách xử lý.

Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp trình bày có chứng minh

Ưu điểm

Về phía giảng viên: với phương pháp này, giảng viên có thể cho học viên thấy mọi thứ liên quan tới nhiệm vụ mà họ phải thực hiện: có thể nhắc lại những gì học viên tỏ ra chưa hiểu; có thể điều chỉnh, giải thích, bổ sung thêm cho học viên bất kỳ lúc nào; luôn luôn cập nhật và cùng làm với học viên, cùng sử dụng trực tiếp mọi vật dụng với học viên, để có thể cảm nhận, phát hiện và điều chỉnh, đưa ra lý giải, hướng dẫn cần thiết cho học viên.

Về phía học viên: học viên có cảm giác thật về trang thiết bị, công cụ hay nguyên liệu, được trực tiếp biết về chúng; học viên có thể trao đổi trực tiếp, yêu cầu nhắc lại các bước của quá trình. Điều này khiến họ tiếp thu một cách dễ dàng và chắc chắn.

Nhược điểm

Về phía giảng viên: phải thực hiện bài giảng khá dài; trang thiết bị có thể trục trặc hoặc không bảo đảm chất lượng

Về phía học viên: có thể cần thêm các tài liệu hỗ trợ để lưu lại tham khảo về sau.

Với tất cả những cách thức thực hiện, những ưu điểm, nhược điểm như trên, phương pháp trình bày có chứng minh là một phương pháp quen thuộc và hữu dụng. Ở đó, cả người giảng và người học cùng nhau khám phá, thực hiện và chia sẻ kinh nghiệm một cách hiệu quả nhất.

Bài giảng lý thuyết

Bài giảng lý thuyết (BGLT) là các dạng bài giảng về các nội dung như: thông tin sản phẩm, chỉ dẫn làm việc, các chi tiết kỹ thuật, các yêu cầu về an toàn, các thủ tục, quy trình, tiêu chuẩn, các chính sách, các quy định, quy tắc, các quy định và chính sách của Nhà nước…

Về mặt truyền thống thì các BGLT thường tẻ nhạt vì giảng viên chủ yếu thuyết trình một chiều, học viên không tham gia một cách tích cực. Tuy nhiên, việc vận dụng các kỹ năng giảng dạy tích cực sẽ làm cho quan niệm BGLT nhàm chán phải thay đổi. Các BGLT cũng có thể chú trọng vào các kỹ năng, song đó không phải là kỹ năng bằng tay chân, mà tập trung vào các kỹ năng trí tuệ. Các kỹ năng có được từ những BGLT có thể là: kỹ năng thu nhận thông tin, kỹ năng nhớ lại và vận dụng thông tin, kỹ năng mô tả và phân tích khái niệm, kỹ năng so sánh và phân tích các ý tưởng khác nhau, kỹ năng khái quát và đánh giá các quan điểm khác nhau…

Kế hoạch BGLT

Có thể hình dung khái quát về BGLT cũng gồm 3 phần tương tự như bài giảng thực hành: mở đầu, triển khai, kết luận. Tuy vậy, theo nghiên cứu của các nhà sinh học, sự chú ý tập trung trên não bộ của con người chỉ đạt tối đa 20 phút. Nếu phần triển khai chỉ bao gồm thông tin lý thuyết thì sự chú ý của học viên sẽ nhanh chóng giảm sau một khoảng thời gian ngắn, cho dù giảng viên có cố gắng. Vậy, làm thế nào để nâng cao sự chú ý của học viên là một câu hỏi lớn đặt ra với các BGLT.

Nâng cao sự chú ý của học viên

Thông thường, một BGLT truyền thống bắt đầu với mức độ chú ý tương đối cao trong 10 phút đầu. Sau đó sự chú ý giảm mạnh trong vòng 10 phút tiếp theo. Sự chú ý này chỉ giữ ở mức thấp, cho đến khi bài giảng sắp kết thúc sẽ tăng một chút vì các học viên chờ cho đến lúc kết thúc bài giảng. Vậy, vấn đề là giảng viên cần phải dùng các biện pháp để nâng cao mức độ chú ý ban đầu và mở rộng mức độ chú ý cao.

– Bổ sung phần giới thiệu mang tính khuyến khích, thúc đẩy: mục đích của việc này là nâng cao mức độ chú ý ban đầu và mở rộng mức độ chú ý, tập trung của học viên ngay từ ban đầu.

–  Bổ sung các hoạt động thích hợp sau một phần lý thuyết để vận dụng kiến thức và kỹ năng:  mục đích của các hoạt động này là kích thích các giác quan khác của học viên, nâng độ dài của sự chú ý ban đầu, củng cố thông tin mới, ngăn cản sự tụt dốc của sự chú ý, chuyển học viên từ nghe thụ động sang nghe tích cực và vận dụng thực hành thông tin mới.

– Bổ sung tóm tắt những thông tin đã được trình bày và cố gắng thu hút sự chú ý bằng việc này: mục đích của hoạt động này là tăng cường sự ghi nhớ thông tin, làm rõ các điểm quan trọng, thúc đẩy sự tham gia tích cực của học viên, mở rộng tầm chú ý và nâng cao mức độ chú ý ban đầu cho người học.

– Bổ sung thêm thông tin lý thuyết mới, hướng vào việc áp dụng thông tin và có thể trình bày hết sức ngắn gọn những thông tin bổ sung. Đây chính là việc chia nhỏ các khối thông tin lớn thành các phần thông tin nhỏ, phù hợp với trình độ tiếp nhận của học viên, sắp xếp chúng theo một trình tự logic, hợp lý và huy động các hoạt động triển khai, áp dụng chúng và cuối cùng tóm tắt lại một cách ngắn gọn.

Các bước để lên kế hoạch các BGLT

Để lên kế hoạch một BGLT, cần thực hiện các bước sau:

– Chuẩn bị một phần giới thiệu thu hút, hấp dẫn. Với một BGLT, nhất thiết giảng viên phải dành thời gian chuẩn bị phần giới thiệu thu hút, hấp dẫn, để lôi cuốn học viên ngay từ phút đầu tiên.

– Chia nhỏ thông tin. Giảng viên cần chia nhỏ thông tin thành các phần cụ thể. Nên phân thành ba loại thông tin: phải biết, nên biết, có thể biết. Thông tin phải biết là những thông tin cơ bản trong bài giảng. Nếu có thời gian, có thể lồng cả thông tin nên biết và thông tin có thể biết vào đây. Mỗi phần thông tin tiếp nhận được là lượng thông tin mà giảng viên nghĩ học viên sẽ tiếp thu được trong một thời điểm. Trung bình thì một phần thông tin không nên quá 15 phút. Sau khoảng thời gian đó, học viên cần được chuyển sang một hoạt động để củng cố thông tin đó bằng cách cho họ áp dụng nó theo một cách thức tích cực nào đó.

– Lập trình tự thông tin logic, hợp lý. Hãy đưa các phần thông tin vào một trình tự theo độ: quan trọng – ít quan trọng, quen thuộc – chưa quen, đơn giản – phức tạp, trong nước – toàn cầu, cụ thể – trừu tượng, trình tự thực thi công tác, trình tự giải quyết vấn đề, theo cách thức thời vụ…

– Lựa chọn các hoạt động để trình bày và áp dụng lý thuyết: Các hoạt động cho các học viên cơ hội tham gia vào việc áp dụng các thông tin hay ý tưởng mà giảng viên đã trình bày cho họ. Họ cần nhìn nhận ra sự gắn bó chặt chẽ giữa thông tin giảng viên trình bày và hoạt động mà họ làm, từ đó rút ra kết quả bài giảng.

– Phát triển phần tóm tắt cho từng phần thông tin. Tóm tắt thông tin chính là việc thâu tóm thông tin quan trọng nhất theo một cách thức dễ nhớ.

Phần kết luận (kết thúc bài giảng)

Nếu như phần mở đầu bài giảng, giảng viên dẫn dắt học viên vào phần thân bài với sự hứng thú, thì phần kết thúc sẽ đưa toàn bộ bài giảng tới điểm kết thỏa mãn đối với tất cả giảng viên và học viên. Phần kết luận của bài giảng thường phải có đủ 3 phương diện sau: kết quả bài giảng, ý kiến phản hồi hướng vào tương lai.

Về kết quả bài giảng

Xem xét lại một cách cô đọng các kết quả bài giảng và xác định xem liệu đã đạt được chưa. Giảng viên có thể tìm ra bằng cách quan sát hành vi của học viên hoặc hỏi họ, yêu cầu họ nhắc lại bằng nhiều cách.

Về ý kiến phản hồi

Đây là một quá trình hai chiều thường bắt đầu bằng việc giảng viên nêu ý kiến phản hồi với từng học viên hay cả lớp. Ý kiến phản hồi cho cá nhân có thể mang tính bảo đảm và hỗ trợ. Ý kiến phản hồi cho cả lớp có thể mang tính khuyến khích, động viên, thúc đẩy. Sau đó có thể hỏi ý kiến phản hồi từ các học viên về những vấn đề chung như tài liệu, sự phù hợp của các hoạt động…

Nếu như giảng viên tiếp nhận ý kiến phản hồi một cách cởi mở thì học viên sẽ không ngại mà phản hồi vì họ biết là ý kiến của họ được xem trọng và có ích cho bài giảng trong tương lai.

Về định hướng tư duy

Hãy gợi ý xem việc học tập hôm nay gắn như thế nào với các bài học sắp tới của học viên. Nếu có thể, gợi ý học viên ngay từ bây giờ và thường xuyên liên hệ với khả năng chọn lựa chức nghiệp trong tương lai. Chỉ cần bằng cách luôn đưa các khả năng và chọn lựa tương lai đã là một cách giúp họ định hướng tư duy và khuyến khích họ tiên liệu sự thành công.

Từ những nội dung trên cho thấy, phần kết luận của bài giảng, giảng viên cần phải thực hiện được những việc sau đây: tóm tắt nội dung; nhấn mạnh điểm chính một cách dễ nhớ, ấn tượng; tổ chức phản hồi hai chiều và định hướng vào tương lai. Và với những nhiệm vụ như vậy, nên dành cho phần kết  luận thời lượng khoảng từ 5 – 10 phút. Nhưng chú ý, dù không nên mất thời gian nhiều, nhưng cần phải thể hiện rõ phần kết luận quan trọng như thế nào.

Kế hoạch phát triển bài giảng bao hàm tất cả ý tưởng của giảng viên với việc dự kiến trình bày nội dung chương trình cho các học viên như thế nào? Do đó, giảng viên phải cân nhắc, chọn lựa và quyết định toàn bộ một kịch bản sẽ mang ra thực hiện trong thực tế nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Việc đưa các kế hoạch này vào cuộc sống (giảng bài) có thành công hay không còn phụ thuộc vào kỹ năng trình bày bài giảng (giảng bài) của mỗi giảng viên mà ở đó, họ sẽ phải thể hiện rõ vai trò của một nhà tư tưởng, nhà biên kịch, đạo diễn và diễn viên xuất sắc. Và người giảng viên càng cần phải vận dụng hiệu quả hơn nữa các phương pháp giảng dạy cụ thể cho sự sắp xếp, dàn dựng và thể hiện một cách hoàn hảo các ý tưởng về nội dung, để đạt được kết quả giảng dạy như mong muốn.

TS. Nguyễn Thanh Hương
Học viện Hành chính Quốc gia