Nâng cao chất lượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang

Tạ Văn Toàn
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang

(Quanlynhanuoc.vn) – Giám sát là hoạt động không thể thiếu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, có vai trò ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm cho các chính sách được thực hiện có hiệu quả. Bài viết nghiên cứu thực tiễn và đề xuất một số giải pháp, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ thực tiễn hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang.

Từ khóa: Chất lượng giám sát; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; thực tiễn; tỉnh Bắc Giang.

1. Đặt vấn đề

Tuỳ theo thể chế chính trị mà hoạt động giám sát có cách thức khác nhau, như: chế độ “giám sát trưởng” của Liên bang Hoa Kỳ, chế độ “chuyên viên giám sát” của Thụy Điển, chế độ “chuyên viên Nghị viện giám sát hành chính” của Vương quốc Anh, chế độ “chuyên viên điều giải” của Cộng hòa Pháp, chế độ “giám sát hành chính” của Nhật Bản…. Dù tổ chức theo cách nào thì mục đích cuối cùng là kiểm soát bảo đảm các chính sách được thực thi theo đúng mục tiêu đề ra.

 Đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân. Do những điều kiện khác nhau Nhân dân không thể trực tiếp thực thi quyền lực này mà ủy quyền cho cơ quan khác nhau để thực hiện. Do giám sát là hoạt động đặc thù, ngoài yếu tố địa vị pháp lý, thẩm quyền, địa vị chính trị, pháp lý còn đỏi hỏi các yêu cầu về tính chất kỹ thuật, chuyên môn. Hoạt động giám sát ở Việt Nam được giao các chủ thể khác nhau từ cơ quan Đảng tới cơ quan quyền lực, các chủ thể này đều mang tính quyền lực trong hoạt động giám sát.

Từ Đại hội lần thứ X của Đảng đã đề cập và không ngừng hoàn thiện một chủ thể giám sát đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Bên cạnh cơ quan mang tính quyền lực trong hoạt động giám sát, một chủ thể giám sát không mang tính quyền lực nhà nước đó là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là việc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp trực tiếp hoặc đề nghị các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, xem xét, đánh giá và kiến nghị đối với hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện chính sách, pháp luật.

2. Tính chất giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mang tính xã hội

Một là, không mang tính quyền lực Nhà nước trong hoạt động giám sát. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa giám sát xã hội với giám sát cơ quan mang tính quyền lực nhà nước. Giám sát mang tính quyền lực nhà nước thể hiện tính bắt buộc của chủ thể với đối tượng giám sát. Giám sát xã hội không mang tính bắt buộc được thể hiện dưới góc độ theo dõi, phát hiện, đánh giá, kiến nghị…

Hai là, phạm vi giám sát xã hội rộng hơn so với giám sát mang tính quyền lực Nhà nước. Chủ thể giám sát mang tính quyền lực Nhà nước được xác định trong phạm vi bộ máy nhà nước; đối với chủ thể thực hiện giám sát xã hội bao gồm các cơ quan Nhà nước, tổ chức đảng, đảng viên, đại biểu dân cử…

 Ba là, hình thức giám sát đa dạng, mang tính khách quan, độc lập, công khai, không bị ràng buộc, chi phối bởi các lợi ích khác.

Bốn là, giám sát xã hội có tính linh hoạt giúp cho lựa chọn hình thức phù hợp với từng đối tượng, nội dung giám sát, có thể tập hợp, quy tụ được nhiều chuyên gia, cá nhân tiêu biểu có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm công tác thuộc nhiều lĩnh vực như kinh tế, pháp luật, khoa học… vì vậy trong quá trình giám sát bảo đảm tính chuyên nghiệp, tính xã hội.

Năm là, hỗ trợ cho hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan kiểm tra, giám sát mang tính quyền lực nhà nước. Giám sát xã hội không mang tính kiềm chế đối với đối tượng giám sát, hoạt động giám sát này ngoài việc phát hiện những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến nghị qua đó giúp cơ quan quản lý thấy được những hạn chế để có giải pháp khắc phục thì giám sát xã hội có ý nghĩa quan trọng giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời những việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, công dân.

3. Thực tiễn hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc giang

Thực hiện các quy định về hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc, những năm qua Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang đã triển khai thực hiện các quy định về giám sát theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Quyết định số 217-QĐ/TW của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội; Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày 15/6/2017 giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Theo quy định, hình thức giám sát của Mặt trận Tổ quốc gồm có 4 hình thức: (1) Nghiên cứu, xem xét văn bản của cơ quan có thẩm quyền liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; (2) Tổ chức đoàn giám sát; (3) Giám sát thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng; (4) Tham gia giám sát với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang luôn chủ động tiến hành thực hiện đồng thời các hình thức giám sát, nhằm phát huy tối đa hiệu quả và hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện. Trong đó hình thức tổ chức đoàn giám sát luôn được Mặt trận Tổ quốc quan tâm do có những tính ưu việt của hình thức này mà hình thức khác không có đó là “tiến hành khảo sát thực tế”.

Qua 6 năm thực (từ năm 2018 đến 2023), Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang tổ chức giám sát 1.321 nội dung, tại 6.726 cơ quan, đơn vị, kiến nghị 6.435 nội dung (trong đó cấp tỉnh giám 18 nội dung tại 129 cơ quan, đơn vị; cấp huyện giám sát 134 nội dung tại 936 cơ quan, đơn vị; cấp xã giám sát 1.165 cuộc tại 5.481 cơ quan, tổ chức). Trong đó năm 2023, Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang tổ chức giám sát 266 nội dung tại 977 cơ quan, đơn vi (cấp tỉnh 4 nội dung, cấp huyện 25 nội dung, cấp xã 237 nội dung)1.

Nội dung giám sát là những vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân như giám sát việc thực hiện công tác thu hồi, bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; giám sát việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn tỉnh; giám sát việc thực hiện quy định chính sách hỗ trợ cứng hóa đường trục thôn, đường liên thôn và đường nội đồng gắn với giao thông liên thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (giai đoạn 2017-2019); giám sát việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; giám sát thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương và hỗ trợ người lao động ngừng việc do đại dịch Covid-19 theo Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ; giám sát cán bộ, đảng viên theo Quy định số 124-QĐ/TW của Ban Bí thư về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; giám sát việc thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…

Qua hoạt động giám sát của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã có những kết quả và ý nghĩa quan trọng. Đã phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được thực thi có hiệu quả. Thông qua giám sát đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến nghị điều chỉnh và hoàn thiện chính sách, pháp luật phù hợp với thực tiễn. Qua đó phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi lợi dụng chính sách vì lợi ích cá nhân, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cán bộ, đảng viên, công chức trong thực thi công vụ.

Giám sát những vấn đề có liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, đã không những chỉ ra những tồn tại, hạn chế bất cập, đưa ra những đề xuất, kiến nghị. Những kiến nghị, đề xuất đó phản ánh quan điểm của Mặt trận Tổ quốc, đồng thời thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân đối với chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc chủ động trong việc lựa chọn nội dung, hiệp thương, thống nhất nội dung giám sát với các tổ chức chính trị – xã hội. Phối hợp với cấp uỷ, chính quyền trong việc giám sát các nội dung liên quan. Lựa chọn đơn vị thành viên tham gia giám sát có bản lĩnh chính trị, có chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực được giám sát.

Khơi dậy và phát huy được vai trò làm chủ của Nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội, góp phần củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo niềm tin của Nhân dân dân đối với Đảng, Nhà nước. Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc có sự tham gia của người dân qua đó lôi cuốn được sự tham gia Nhân dân, vai trò làm chủ của Nhân dân được nâng lên, qua đó huy động, tập hợp quần chúng tham gia thực hiện giám sát, qua đó càng thể hiện tính xã hội trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc nhưng vẫn bảo đảm tính chuyên nghiệp của mình. Qua thực tiễn giám sát, cán bộ Mặt trận được tôi luyện thêm về bản lĩnh chính trị, trang bị thêm về kiến thức, kỹ năng hoạt động. Ví trí, vai trò Mặt trận Tổ quốc không ngừng được nâng lên; công tác phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc với cấp uỷ, chính quyền ngày một chặt chẽ.

Bên cạnh đó, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang vẫn còn một số tồn tại đó là nội dung giám sát chưa được nhiều; đối với cơ sở việc xây dựng kế hoạch và tổ chức giám sát còn chưa bài bản, chưa thật sự đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao, chưa có nhiều kinh nghiệm, một số kiến nghị sau giám sát chất lượng chưa cao, chưa thuyết phục, chưa tổ chức đoàn giám sát kết quả thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Nguyên nhân là do tổ chức đoàn giám sát đảm bảo theo trình tự, thủ tục và phức tạp hơn rất nhiều so với hình thức giám sát khác, đòi hỏi nhiều nhân sự, kiến thức, kinh nghiệm của thành viên giám sát; tốn kém về kinh phí, phương tiện, thời gian; việc lựa chọn nội dung giám sát còn căn cứ vào nhiều yếu tố như lãnh đạo cấp uỷ, nguồn lực giám sát, vấn đề giám sát có thực sự tiêu biểu để lựa chọn giám sát, nhiệm vụ công tác trong năm….

Hình thức tổ chức đoàn giám sát còn một số vướng mắc như thiếu những quy định rõ ràng và cụ thể về cơ chế tiếp nhận và phản hồi kiến nghị sau giám sát. Theo quy định “Cơ quan Nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật”, tuy nhiên đến nay chưa có quy định về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức khi không trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc. Bên cạnh đó hướng dẫn về hình thức tổ chức đoàn giám sát còn chưa chặt chẽ theo Nghị quyết liên tịch số 403 quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chưa phù hợp, dễ gây khó cho cơ sở thực hiện.

4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát

Thứ nhất, hoàn thiện quy định về cơ chế tiếp nhận, phản hồi, xử lý những kiến nghị sau giám sát. Thực tế hiện nay đang thiếu những quy định rõ ràng và cụ thể về cơ chế tiếp nhận kiến nghị sau giám sát và chế tài đối với việc không tiếp nhận kiến nghị giám sát. Hiệu quả của hoạt động giám sát phụ thuộc rất nhiều vào khâu tiếp nhận, xử lý các kiến nghị giám sát. Tuy vậy hiện nay mới có quy định cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, trả lời trong thời hạn theo quy định nhưng chưa có quy định về trách nhiệm của người đứng đầu và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc.

Thứ hai, nghiên cứu ban hành Luật Giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Từ khi triển khai thực hiện chủ trương được đề ra tại Đại hội X của Đảng về giám sát Mặt trận Tổ quốc đến nay, các quy định giám sát của Mặt trận Tổ quốc đã được đề cập và quy định trong nhiều văn bản khác nhau. Tuy nhiên, việc quy định trong nhiều loại văn bản khác nhau đã dẫn đến một thực trạng là các quy định của pháp luật có liên quan đến giám sát của Mặt trận Tổ quốc không tập trung, tính pháp lý văn bản chưa đủ mạnh. Do vậy, việc ban hành Luật Giám sát của Mặt trận Tổ quốc sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm “hiệu lực pháp lý đủ mạnh” cho hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Để hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc thực sự là một chế định trong hoạt động kiểm soát quyền lực Nhà nước.

Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cán bộ Mặt trận Tổ quốc để nâng cao năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng tổ chức thực hiện hoạt động giám sát. Bổ sung, thay đổi chương trình sát với thực tế để rèn luyện kỹ năng tổ chức thực hiện hoạt động giám sát.

Thứ tư, xây dựng tiêu chí nâng cao tiêu chuẩn cán bộ Mặt trận Tổ quốc. Chất lượng án bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với kết quả hoạt động, để làm việc có hiệu quả đòi hỏi người cán bộ Mặt trận ngoài việc có trình độ, kiến thức thì cán bộ Mặt trận Tổ quốc cần nhiệt tình, trách nhiệm, có kiến thức nhất định về các lĩnh vực, kỹ năng làm việc và am hiểu sâu sắc các đối tượng. Do đó, cần quan tâm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, đào tạo cho đội ngũ cán bộ mặt trận để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác Mặt trận.

Thứ năm, phát huy vai trò hội đồng tư vấn, ban tư vấn, cộng tác viên trong tư vấn, cung cấp thông tin liên quan giám sát, tham gia giám sát. Cần thu hút đội ngũ chuyên gia có trình độ, chuyên môn, tư duy độc lập, hiểu được nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của Nhân dân và có đủ năng lực giám sát.

Thứ sáu, tăng cường trao đổi thông tin, phối hợp kiểm tra, giám sát với các cơ quan liên quan. Sự phối hợp của hai hệ thống này sẽ bổ sung cho nhau để đảm bảo hiệu quả tối ưu cho mục đích kiểm tra, giám sát. Tránh sự trùng lặp các nội dung giám sát trong một năm.

Thứ bảy, tăng cường công tác phối hợp, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể và cơ chế phối hợp trong hoạt động giám sát.

 Đối với tổ chức Đảng, cần có những quy định rõ, cụ thể cơ chế phối hợp trong hoạt động phối hợp giám sát về thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, giám sát cán bộ, đảng viên….

 Đối với HĐND, UBND hàng năm dự kiến nội dung giám sát, cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu, đảm bảo điều kiện giám sát. Quy định cụ thể về trách nhiệm tiếp thu, trả lời những kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc sau giám sát.

 Đối với các tổ chức chính trị – xã hội tiếp tục thống nhất chương trình, nội dung giám sát, tránh bị trùng lặp nội dung giám sát. Cử thành viên tham gia giám sát khi có nội dung liên quan.

 Đối với Mặt trận Tổ quốc trong chương trình làm việc với HĐND, UBND cần xác định nội dung chương trình giám sát, cần ký chương trình phối hợp cụ thể về những nội dung liên quan đến các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát. Ngoài ra, cần minh bạch, công khai những kiến nghị sau giám sát và trách nhiệm giải trình, tiếp thu để các tầng lớp nhân dân theo dõi, thấy rõ việc làm và trách nhiệm, quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc  trong việc tham gia giám sát với cơ quan nhà nước.

5. Một số nhiệm vụ cần tổ chức thực hiện

Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát cần thực hiện lộ trình:

(1) Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức cấp uỷ, chính quyền, các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Đây là một yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm “quyền lực thuộc về Nhân dân”. Giám sát Mặt trận Tổ quốc không phải là “đấu tố” hay vì “mục tiêu chính trị cá nhân” mà để các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có hiệu quả. Muốn vậy, cần nâng cao ý thức chính trị và ý thức pháp luật không chỉ cán bộ, công chức mà cả các tầng lớp Nhân dân thông qua việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, cần trang bị cho Nhân dân các thông tin và kiến thức cần thiết để họ có thể tự mình trực tiếp thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội.

(2) Phát huy dân chủ, nâng cao nhận thức cán bộ Mặt trận Tổ quốc về giám sát. Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Phát huy dân chủ nghĩa là bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân góp phần thực hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Vì vậy, cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Nhân dân về thực hiện chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, giải quyết đúng mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ.

Mặt trận Tổ quốc cần tăng cường nâng cao nhận thức về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc thực hiện chức năng giám sát, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng của Mặt trận. Mặt trận Tổ quốc cũng cần phải tự khẳng định tính độc lập, tự chủ của mình trong hệ thống chính trị trong thực hiện vai trò giám sát.

(3) Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc theo phương châm “ít mà tốt”, theo đó cần xây dựng tiêu chí nâng cao tiêu chuẩn cán bộ Mặt trận đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn mới. Củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các hội đồng tư vấn, ban tư vấn, đội ngũ cộng tác viên làm chức năng tư vấn, phản biện, cung cấp thông tin, dữ liệu làm luận chứng cho các quá trình giám sát.

(4) Tăng cường nguồn lực tài chính cho hoạt động giám sát gồm tăng cường chế độ phụ cấp cho cán bộ tham gia giám sát, thành viên Ban Thanh tra Nhân dân, Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng.

(5) Xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với các chủ thể khác nhằm bảo đảm tính đại diện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức liên hiệp tự nguyện, do vậy muốn phát huy hiệu quả giám sát cần có sự phối hợp, tham gia của các tổ chức thành viên, sự phối hợp này mang tính tương hỗ, làm tăng hiệu quả trong hoạt động giám sát. Thực hiện tốt điều này cũng chính là làm tăng thêm vị trí, vai trò của Mặt trận trong hệ thống chính trị.

Chú thích:
1. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang (2023). Báo cáo kết quả công tác Mặt trận Tổ quốc năm 2023, phương hướng, nhiệm vụ năm 2024.
Tài liệu tham khảo:
1. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Bắc Giang (2023). Báo cáo 5 năm thực hiện Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTW MTTQVN ngày 15/6/2017 quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
2. Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 của Ban Bí thư về giám sát Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên.