TS. Lã Văn Xự
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
ThS. Nguyễn Thị Hồng Minh
Cơ quan UBKT Đảng uỷ Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Quyền lực trong công tác cán bộ là thẩm quyền của tổ chức, cá nhân trong các khâu liên quan đến công tác cán bộ, là vấn đề vô cùng quan trọng, liên quan đến mọi hoạt động của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, quá trình tổ chức và sử dụng quyền lực trong công tác cán bộ luôn tiềm ẩn những nguy cơ, như: lạm quyền, lộng quyền,… tác động tiêu cực đến sự ổn định, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Chính vì vậy, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nhằm bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện hiệu quả, đúng mục đích, làm cơ sở bảo đảm cho thành công của sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Từ khoá: Kiểm soát quyền lực, công tác cán bộ, quyền lực nhà nước, cán bộ.
1. Những vấn đề cơ bản về công tác cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”1; đồng thời, Người nhấn mạnh: “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”2. Thấm nhuần lời dạy của Người, quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ nói riêng, công tác cán bộ nói chung. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”3. Điều đó cho thấy, vị trí, vai trò to lớn của công tác cán bộ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.
Như vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam thì đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ luôn là yếu tố then chốt, là mắt khâu quyết định. Bởi, suy cho cùng, dù Đảng có đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn, có tư duy, tầm nhìn chiến lược, có ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định; hệ thống pháp luật có đầy đủ đến đâu; nhưng những con người (cán bộ) được giao những nhiệm vụ, quyền hạn, trực tiếp làm việc trong các cơ quan của Đảng, bộ máy nhà nước mà không đủ tâm, đủ tầm, cơ hội, ích kỷ, cục bộ, bè phái, gia trưởng, tham nhũng,… thì chắc chắn sự nghiệp cách mạng sẽ không thể thành công.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng cho tới hiện nay, Đảng ta luôn xác định: công tác cán bộ là khâu “then chốt của nhiệm vụ then chốt” trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lựa chọn, đào tạo được đội ngũ cán bộ vừa có “đức”, vừa có “tài”, có “tâm, tầm, trí” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng là vấn đề cốt lõi, suy đến cùng bảo đảm thành công của sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Vấn đề này, tiếp tục được Đảng ta khẳng định trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Theo đó, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng… Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”4.
Thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ là những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức chính trị – xã hội được Nhân dân uỷ quyền để thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đạt được mục đích đề ra. Tuy nhiên, quyền lực nhà nước luôn có nguy cơ bị “tha hoá”; quá trình tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước luôn tiềm ẩn những nguy cơ như lạm quyền, độc đoán, gia trưởng, tham nhũng, tiêu cực,… đe doạ tới tính chính đáng của quyền lực nhà nước, làm sai lệch đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đặc biệt hơn, nếu những con người được giao những trọng trách quan trọng trong bộ máy nhà nước bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, luôn đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của tập thể thì điều đó sẽ là nguy cơ vô cùng nguy hiểm, đe doạ tới sự tồn vong của chế độ.
Nhận thức rõ điều này, trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nói riêng, mục đích để ngăn ngừa, hạn chế tới mức thấp nhất sự lạm quyền của những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, bảo đảm quyền lực nhà nước được thực hiện đúng mục đích, hiệu quả. Tiêu biểu, có thể kể đến, như: Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/01/2012 về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30/10/2016 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quy định số 105-QĐ/TW ngày 19/12/2017 về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định số 124-QĐ/TW ngày 02/02/2018 về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và Nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên; Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị về kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm; Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ; Quy định số 131-QĐ/TW ngày 27/10/2023 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán…
Theo đó, tại Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ, nêu rõ: “(1) Quyền lực trong công tác cán bộ là thẩm quyền của tổ chức, cá nhân trong các khâu liên quan đến công tác cán bộ, gồm: Tuyển dụng, đánh giá, lấy phiếu tín nhiệm, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, bố trí, phân công, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, giới thiệu ứng cử, tái cử, chỉ định, điều động, luân chuyển, biệt phái; phong, thăng, giáng, tước quân hàm; cho thôi giữ chức vụ, thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân; tạm đình chỉ, đình chỉ chức vụ, cho từ chức, miễn nhiệm, cách chức; khen thưởng, kỷ luật; kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ và bảo vệ chính trị nội bộ. (2) Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc, quy định, quy trình, quy chế, quyết định về công tác cán bộ và phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”5.
Để làm rõ hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ, Quy định số 114-QĐ/TW xác định gồm có hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi chạy chức, chạy quyền. Theo đó, tại Điều 3 quy định những hành vi lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn, bao gồm:
“(1) Dùng uy tín, ảnh hưởng của bản thân và người có quan hệ gia đình gợi ý, tác động, gây áp lực để người khác quyết định, chỉ đạo, tham mưu, đề xuất, nhận xét, đánh giá, biểu quyết, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu giới thiệu nhân sự, bỏ phiếu bầu theo ý mình;
(2) Để người có quan hệ gia đình, người có mối quan hệ thân quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của bản thân tác động, thao túng, can thiệp vào các khâu trong công tác cán bộ;
(3) Lồng ghép ý đồ cá nhân khi thực hiện các khâu trong công tác cán bộ vì động cơ, mục đích vụ lợi hoặc có lợi cho nhân sự trong quá trình thực hiện công tác cán bộ;
(4) Chỉ đạo, tham mưu các khâu trong công tác cán bộ… đối với nhân sự không đủ điều kiện, tiêu chuẩn; không đúng nguyên tắc, quy định, quy trình, quy chế, quyết định;
(5) Trì hoãn, không thực hiện khi thấy bất lợi hoặc chọn thời điểm có lợi đối với nhân sự theo ý mình để thực hiện quy trình công tác cán bộ;
(6) Khi nhận được đơn, thư phản ánh, tố cáo hoặc biết nhân sự có hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ nhưng thỏa hiệp, dung túng, bao che không xử lý theo thẩm quyền, xử lý không đúng quy định hoặc không báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý;
(7) Xác nhận, chứng thực, nhận xét, đánh giá mang tính áp đặt, không đúng bản chất, không đúng sự thật hoặc làm giả, làm sai lệch nội dung hồ sơ nhân sự, kết quả bầu cử, lấy phiếu giới thiệu, phiếu tín nhiệm, xét tuyển, thi tuyển nhằm có lợi cho nhân sự hoặc để đạt mục đích cá nhân;
(8) Cung cấp hoặc tiết lộ thông tin, tài liệu, hồ sơ cán bộ, đảng viên cho tổ chức và cá nhân không có thẩm quyền, trách nhiệm, nhất là những thông tin, tài liệu, hồ sơ nhân sự đang trong quá trình thực hiện quy trình công tác cán bộ”6.
Về hành vi chạy chức, chạy quyền, tại Điều 4 của Quy định số 114-QĐ/TW xác định, gồm có:
“(1) Trực tiếp hoặc gián tiếp môi giới, đưa và nhận hối lộ nhằm giúp cho người khác có được vị trí, chức vụ, quyền lợi;
(2) Tặng quà, tiền, bất động sản hoặc các lợi ích vật chất, phi vật chất khác, sắp xếp các hoạt động vui chơi, giải trí cho người có thẩm quyền, trách nhiệm nhằm mục đích có được sự ủng hộ, tín nhiệm, vị trí, chức vụ, quyền lợi;
(3) Chạy tuổi, thâm niên công tác, danh hiệu thi đua, khen thưởng, bằng cấp, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, chỉ định, điều động, luân chuyển, biệt phái, phong, thăng quân hàm… nhằm mục đích đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có được chức vụ, quyền lợi;
(4) Lợi dụng các mối quan hệ thân quen hoặc sử dụng lợi thế, vị trí công tác, uy tín của người khác để tác động, tranh thủ, gây sức ép với người có thẩm quyền, trách nhiệm nhằm mục đích có được vị trí, chức vụ, quyền lợi;
(5) Lợi dụng việc nắm được thông tin nội bộ hoặc thông tin bất lợi của tổ chức, cá nhân để đặt điều kiện, gây sức ép đối với người có thẩm quyền, trách nhiệm trong việc phân công, bổ nhiệm, giới thiệu, đề cử, chỉ định bản thân;
(6) Dùng lý lịch, xuất thân gia đình, thành tích công tác của bản thân để đặt ra yêu cầu vô lý đối với tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm nhằm có được vị trí, chức vụ, quyền lợi và các hành vi tiêu cực khác”7.
Như vậy, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là tổng thể các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm sử dụng công cụ, phương tiện, biện pháp hợp pháp để tác động vào mối quan hệ giữa tổ chức, cá nhân được trao quyền trong công tác cán bộ và người được cấp có thẩm quyền xem xét, thực hiện quy định, quy trình, quy chế, quyết định về công tác cán bộ nhằm bảo đảm cho các khâu, các bước của công tác cán bộ được thực hiện nghiêm túc, đúng nguyên tắc, quy định, quy trình, quy chế, quyết định về công tác cán bộ; qua đó, kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện và xử lý nghiêm minh, dứt điểm các hành vi tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Quyền lực nói chung, quyền lực trong công tác cán bộ nói riêng luôn có xu hướng tự mở rộng và tăng cường vai trò, sự ảnh hưởng. Theo đó, sự “tha hóa” quyền lực trong công tác cán bộ cũng là xu hướng khó tránh khỏi. Quyền lực nếu không được kiểm soát chặt chẽ dễ dẫn đến những quyết định, việc làm sai trái, để lại hậu quả khôn lường. Bởi, tổ chức càng lớn, chức vụ, thẩm quyền càng cao, nếu làm sai thì hậu quả, tác động càng lớn, tính chất, mức độ càng nghiêm trọng, thậm chí là liên quan đến lợi ích sống còn của quốc gia, dân tộc, sự tồn vong của chế độ. Chính vì thế, để đất nước ổn định và phát triển bền vững, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, đòi hỏi tất yếu phải kiểm soát quyền lực thật chặt chẽ, mà trước hết là kiểm soát có hiệu quả quyền lực trong công tác cán bộ.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Một đất nước, một xã hội muốn tốt đẹp thì bên cạnh sự giáo dục, sự khuyên nhủ, càng phải có kỷ cương, phép nước, phải có pháp luật nghiêm minh để bảo vệ cái tốt, cái đúng; răn đe, trừng trị những cái xấu, cái sai, có hại cho dân cho nước, tức là phải có sự quản lý bằng cơ chế, pháp luật, phải có phép nước”8.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng xác định, cần phải “Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu”9.
Kiểm điểm, đánh giá kết quả lãnh đạo, thực hiện công tác cán bộ qua hơn 35 năm đổi mới, Đảng ta nhận định: “Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới phong cách và lề lối làm việc; nghiêm khắc với mình hơn, giữ gìn đạo đức, lối sống; bước đầu tự sửa chữa khuyết điểm, tự điều chỉnh hành vi và các hoạt động trong công tác và trong cuộc sống của mình, của gia đình và người thân. Bước đầu kiềm chế, ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí. Nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp đã được phát hiện và tập trung chỉ đạo điều tra, xét xử nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Nhiều chủ trương, nguyên tắc, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ được thể chế, cụ thể hoá bằng các quy chế, quy định, quy trình bảo đảm dân chủ, chặt chẽ hơn”10.
Tuy nhiên, Đảng cũng thẳng thắn chỉ rõ: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”11. Trong khi đó, “Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội…, trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi”12.
Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, “Qua kiểm tra, cấp ủy các cấp đã thi hành kỷ luật 1.329 tổ chức đảng và 69.600 đảng viên; ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 17.610 đảng viên. Riêng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã thi hành kỷ luật 10 tổ chức đảng và 60 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 169 đảng viên (trong đó có 53 đồng chí là cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý)”13. Cùng với việc chỉ ra những tồn tại, hạn chế về đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, Đảng ta, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư cũng thừa nhận, trong những năm qua, việc kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước chưa đạt được yêu cầu đề ra: “Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, Nhà nước chưa thật đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”14.
Một trong những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là do: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao còn thiếu tu dưỡng rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng. Cơ chế kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm đúng mức”15.
2. Định hướng nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay
Một là, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải gắn chặt và quy rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Tăng cường giáo dục, quán triệt cho mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cấp ủy Đảng các cấp, đặc biệt là người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức về quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát, phòng chống tham nhũng, kiểm soát quyền lực nhà nước; đồng thời, triển khai, tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng, Nhà nước về các lĩnh vực này.
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, những người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Trong đó, chú trọng việc xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của cấp uỷ, người đứng đầu các cấp đối với công tác cán bộ; “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những biện pháp hữu hiệu”16. Bên cạnh đó, cần tập trung hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát đối với công tác cán bộ, thực thi quyền lực của người có chức, có quyền,… chống tư tưởng “quyền anh, quyền tôi”, “cua cậy càng, cá cậy vây”17. Tăng cường giám sát, kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực của người đứng đầu trong các cơ quan, tổ chức, nhằm bảo đảm: “Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, quyền lực phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực cũng phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý vi phạm”18. Đồng thời, “Phải kiên quyết loại bỏ thái độ bàng quan, vô cảm trước những bức xúc của Nhân dân; kiên quyết loại bỏ mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền lực để xâm phạm lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”19.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát định kỳ và đột xuất, coi trọng kiểm tra, giám sát nội bộ đối với việc thực hiện quyền lực và trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh đối với người đứng đầu nếu có các hành vi vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan đến công tác cán bộ, với phương châm không có “vùng cấm”, không loại trừ bất cứ đối tượng nào, ở bất kỳ cấp nào, cương vị nào, nhằm bảo đảm mọi hành vi lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi, tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong công tác cán bộ đều phải được xử lý nghiêm minh, dứt điểm, kịp thời theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải được triển khai đồng bộ, quyết liệt, thực chất, hiệu quả.
Cần khắc phục kịp thời tình trạng các cơ quan, tổ chức và cá nhân được trao quyền hạn, trách nhiệm để tổ chức kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, tuy nhiên, việc quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện còn mang tính hình thức, đối phó, nể nang, né tránh, dung túng, bao che, tuỳ tiện, đơn giản trong công tác cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ dẫn tới hiệu quả thấp, không đạt được mục đích, yêu cầu đề ra.
Theo đó, việc quán triệt, triển khai, tổ chức kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải được nhận thức đúng đắn, có sự phối hợp chặt chẽ, tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt giữa các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm thực chất, hiệu quả. “Kết hợp giữa tăng cường kỷ cương, kỷ luật, thượng tôn pháp luật, xây dựng Đảng nghiêm minh với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với các căn bệnh của chủ nghĩa cá nhân.
Thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền. Xử lý nghiêm minh, đồng bộ cả kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật cán bộ có vi phạm. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo hướng phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và các cơ quan quản lý nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội”20.
Ba là, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải thực hiện đúng quy định, quy trình, nguyên tắc, công tâm, khách quan, thận trọng, cụ thể.
Thực tiễn cho thấy, trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong công tác cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nếu thực hiện không đúng quy định, quy trình, nguyên tắc sẽ dẫn tới hậu quả vô cùng nguy hiểm, ảnh hưởng tới lợi ích của nhà nước, sự nghiệp, quyền lợi chính trị của con người, ảnh hưởng tới quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân,… Vì vậy, đòi hỏi cấp uỷ đảng các cấp cần phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo chấp hành nghiêm nguyên tắc, quy định, quy trình, quy chế, quyết định về công tác cán bộ; thường xuyên kiểm tra, giám sát các cơ quan tham mưu, cơ quan cấp dưới và cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền quản lý trong thực hiện; chấn chỉnh, xử lý kịp thời, nghiêm minh hành vi vi phạm; nắm tình hình, dư luận cán bộ, đảng viên và Nhân dân, kịp thời xem xét, giải quyết góp phần nâng cao hiệu quả công tác cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ.
Tiếp tục “rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành theo thẩm quyền quy định, quy trình, quy chế, quyết định về công tác cán bộ, bảo đảm chủ trương, nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, sát với thực tiễn địa bàn, đơn vị; xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng khâu của công tác cán bộ, bảo đảm khách quan, công khai, minh bạch”21.
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ, hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng loại cán bộ bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, khách quan, toàn diện, công tâm; lấy chất lượng, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ làm thước đo chính. “Tăng cường kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ một cách thực chất và hiệu quả; bảo đảm đúng quy định, quy trình, công tâm, khách quan, chặt chẽ, thận trọng trong từng khâu của công tác cán bộ; không để lọt những người không đủ tiêu chuẩn, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”22.
Bốn là, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ phải phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí và toàn thể nhân dân.
Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ ở nước ta hiện nay chỉ đem lại hiệu quả thực chất khi phát huy tốt vai trò của Mặt trận Tổ quốc các cấp, cùng các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí và toàn thể nhân dân. Bởi, trên thực tế, ở Việt Nam hiện nay, việc kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nói riêng được thực hiện không chỉ qua các thiết chế bên trong của bộ máy nhà nước mà còn được thực hiện rất hiệu quả thông qua các thiết chế bên ngoài bộ máy nhà nước.
Theo đó, cần nhanh chóng rà soát, bổ sung, hoàn thiện, thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội, về kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nói riêng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí và Nhân dân. Chú trọng việc ban hành quy chế, quy định rõ quyền, trách nhiệm, hình thức, phạm vi,… của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, các cơ quan truyền thông, báo chí và Nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ nói riêng, nhất là quy chế về việc bảo vệ, khen thưởng đối với người tố cáo tham nhũng, tiêu cực, cung cấp thông tin về tham nhũng, tiêu cực.
Bên cạnh đó, “cùng với “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” thể chế, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là điều kiện đầu tiên để kiểm soát quyền lực, bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn, không bị “tha hóa”. Vì vậy, phải tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị và các biện pháp bảo đảm để công dân thực hiện đầy đủ quyền tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật. Phát huy vai trò giám sát việc thực thi quyền lực thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thanh tra, kiểm toán của Nhà nước; giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử, của cơ quan tư pháp, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, của nhân dân và xã hội.”23
Cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một cách phù hợp. Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư gửi đến cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
Chú thích:
1, 2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 309, 313.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 56. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 332.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khoá XII). H. Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 54.
5, 6, 7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2023). Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
8. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr, 12.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 187 – 188.
10, 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 42 – 43, 44.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Khoá XII. H. Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 48.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 2. H. NXB Chính trị Quốc gia, tr, 200.
14, 15, 16, 17, 18, 19, 20. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 51, 403, 64, 152, 404 – 405, 139, 270.
21. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2023). Quy định số 114-QĐ/TW ngày 11/7/2023 về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ.
22, 23. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, tr. 380, 411 – 412.