ThS. Vương Hữu Ái Linh
UBND quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh, gồm: bối cảnh hội nhập kinh tế; phát triển khoa học và công nghệ; điều kiện kinh tế – xã hội; ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nguồn nhân lực; nguồn lực giảm nghèo; ý chí vươn lên thoát nghèo. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Yếu tố ảnh hưởng; quản lý nhà nước; giảm nghèo bền vững; TP. Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Giảm nghèo bền vững là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước nhằm giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước, hạn chế tái nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống, tăng thu nhập cho người dân, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản. Đây cũng là một trong ba chương trình mục tiêu quốc gia lớn của nước ta giai đoạn 2021 – 2030.”
TP. Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt với dân số gần 14 triệu người; là trung tâm kinh tế của đất nước với các ngành sản xuất công nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao…; quy mô GDP chiếm 1/3 cả nước. Tuy nhiên, tại TP. Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hộ gia đình có cuộc sống khó khăn, đặc biệt là sau đại dịch Covid-19, do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác giảm nghèo trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh
(1) Bối cảnh hội nhập.
Hội nhập quốc tế sẽ đem lại nhiều cơ hội phát triển cho mỗi quốc gia, các địa phương, các tổ chức, doanh nghiệp, người dân. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức, cụ thể:
Một là, hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn do thiếu trình độ, thiếu kỹ năng, khó hòa nhập xã hội, khó tiếp cận được thông tin… Vì vậy, khi đứng trước hội nhập kinh tế, người nghèo là đối tượng dễ bị tổn thương sẽ có nguy cơ duy trì nghèo và tái nghèo cao do thiếu năng lực bắt kịp với trình độ phát triển và khó chống chịu với các chiều biến động từ quá trình hội nhập.
Thứ hai, Nhà nước phải cải cách và đổi mới mọi mặt, trong đó có đổi mới công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững. Nếu không đón bắt được cơ hội, sẽ tụt hậu và khó có sự phát triển nhanh, bền vững. Tại các đô thị, do tốc độ hội nhập rất cao so với các khu vực nông thôn nên các cơ chế, chính sách của Nhà nước phải được mở rộng, năng động, linh hoạt thích ứng với tình hình biến đổi trong quản lý nhà nước về xã hội nói chung và lĩnh vực giảm nghèo nói riêng. Bên cạnh đó, hội nhập cũng là thách thức đối với đội ngũ cán bộ, công chức cần phải luôn học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Thứ ba, TP. Hồ Chí Minh là một trung tâm hội nhập và kinh tế hàng đầu của Việt Nam, thu hút nhiều đầu tư nước ngoài, là nơi giao thoa văn hóa và kinh tế giữa nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, tác động tới công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo ở khu vực. Trong công tác quản lý về giảm nghèo gặp thách thức, như: khoảng cách giàu nghèo rõ ràng, số lượng lao động ở các tỉnh, thành phố đến làm việc tạo ra cạnh tranh về việc làm…
(2) Phát triển khoa học – công nghệ.
Với sự phát triển đa dạng của khoa học – công nghệ hiện nay, việc tiếp cận, lựa chọn và vận hành được công nghệ phù hợp, có hiệu quả sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố con người. Đặc biệt, đối với người nghèo, người dễ bị tổn thương có những ảnh hưởng rất đáng kể đến công cuộc giảm nghèo nói chung, của từng vùng, từng khu vực nói riêng. Trong khi đó, đối với nhiều đô thị, ngoài việc nắm giữ những vai trò chủ đạo về chính trị, kinh tế – xã hội còn mang lại những đóng góp đầu kéo về thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực và quốc gia. Đồng thời, là khu vực tiếp cận và lan tỏa nhanh nhất những cơ hội về khoa học – công nghệ, thông tin, những tiến bộ về phát triển xã hội, tạo ra nhiều cơ hội cho dân cư đô thị về giáo dục, việc làm,…
TP. Hồ Chí Minh đã chủ động thu hút sự tham gia của nhiều viện nghiên cứu hàng đầu và các trường đại học lớn, như: Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Trường Đại học Bách Khoa TP. Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh…, từ đó tạo điều kiện cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo được học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn, tăng cơ hội việc làm trong bối cảnh phát triển công nghệ 4.0. Chủ động áp dụng và phát triển các giải pháp công nghệ 4.0, như: trí tuệ nhân tạo (AI), Internet kết nối vạn vật (IoT), công nghệ chuỗi – khối (Blockchain),… để cải thiện quản lý đô thị, dịch vụ công cộng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nói chung và người nghèo nói riêng. Cùng với đó, Thành phố mở rộng hợp tác với nhiều nước và tổ chức quốc tế trong lĩnh vực khoa học – công nghệ, tạo điều kiện cho việc trao đổi kiến thức, kỹ thuật và nguồn lực về cách thức quản lý nhà nước của thành phố cũng như công tác giảm nghèo.
Bên cạnh những điểm nổi bật, TP. Hồ Chí Minh cũng đối mặt với các thách thức, như: việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng, cải thiện môi trường đổi mới và khởi nghiệp, bảo mật thông tin và quyền riêng tư trong thời đại số hóa… Từ đó, đòi hỏi TP. Hồ Chí Minh phải có cách thức quản lý xã hội nói chung và về giảm nghèo nói riêng. Vì vậy, phát triển khoa học – công nghệ tại TP. Hồ Chí Minh vừa là thời cơ và cũng tạo ra thách thức tác động đến quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.
(3) Điều kiện kinh tế – xã hội.
Điều kiện phát triển kinh tế của địa phương là nhân tố quan trọng tác động đến công tác giảm nghèo và quản lý giảm nghèo. Quy mô, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế là yếu tố cơ bản để Nhà nước tăng nguồn thu và tích lũy, tạo nên sức mạnh vật chất để hình thành và triển khai các chương trình hỗ trợ. Người nghèo có điều kiện sự vươn lên thoát khỏi nghèo đói. Quy mô nền kinh tế lớn và tăng trưởng kinh tế cao, bền vững là điều kiện quan trọng để thực hiện giảm nghèo.
Trình độ phát triển kinh tế – xã hội có tác động trực tiếp tới việc triển khai công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo, tăng trưởng kinh tế và thu nhập của dân cư trong quá trình đô thị hóa, không những tạo điều kiện vật chất cho sự hỗ trợ ngày càng lớn của Nhà nước đối với người nghèo, đồng thời tạo điều kiện giúp cho họ có thêm nhiều thuận lợi để vươn lên. Những nhân tố xã hội tác động đến nghèo đói, gồm: dân số và lao động, trình độ dân trí, đầu tư cho giáo dục, chăm sóc sức khỏe, phong tục, tập quán, công tác cán bộ và tổ chức bộ máy quản lý, điều hành. Trong đó, sự gia tăng dân số, cơ cấu dân cư có liên quan trực tiếp đến tình trạng nghèo đói.
Ngoài ra, sự đa dạng về văn hóa, từ truyền thống đến hiện đại là một trong những đặc trưng nổi bật của TP. Hồ Chí Minh, với số lượng đồng bào dân tộc thiểu số sống đan xen, rải rác ở khắp các quận, huyện của Thành phố. Trình độ học vấn và mặt bằng dân trí của đồng bào dân tộc nhìn chung còn thấp hơn so với cộng đồng cư dân ở đô thị, vì vậy trong công tác giảm nghèo đòi hỏi phải có cách chính sách đặc thù cho đồng bào dân tộc thiểu số.
TP. Hồ Chí Minh có nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và trung tâm đào tạo chất lượng, theo số liệu thống kê năm 2023, Thành phố có 58 cơ sở giáo dục đại học, 376 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, 2.341 cơ sở giáo dục từ cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trường phổ thông chuyên biệt1. Hợp tác giáo dục quốc tế và chương trình trao đổi sinh viên ngày càng phổ biến, đẩy mạnh hội nhập văn hóa và kiến thức. Đây là cơ hội cho việc phát triển trình độ dân trí của người dân trên địa bàn Thành phố, trong đó có các hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Kết cấu hạ tầng và dịch vụ công cộng tại thành phố ngày càng được cải thiện và mở rộng, phục vụ nhu cầu của cả người dân và du khách. Ngày 12/8/2017, UBND TP. Hồ Chí Minh đã ban hành Chỉ thị số 07/CT-UBND thực hiện Đề án “Chính sách phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, gắn phát triển kết cấu hạ tầng trong nước với mạng lưới hạ tầng trong các liên kết khu vực”. Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh. Qua đó, sẽ nâng cấp một số hạ tầng, như: đường vành đai 2, dự án BOT trên các trục đường đô thị, triển khai thực hiện dự án theo hình thức PPP trên các lĩnh vực văn hóa – xã hội… Từ đó, thúc đẩy phát triển kinh tế, giao thương, góp phần quan trọng giúp nâng cao điều kiện sống, chất lượng cuộc sống của hộ nghèo và hộ cận nghèo.
(4) Chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giảm nghèo bền vững.
Hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững có tính thống nhất và đồng bộ bao gồm những quy phạm pháp luật liên quan điều chỉnh hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững, được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hòa về nội dung và bảo đảm sự đồng bộ, tính thứ bậc của mỗi quy phạm về hiệu lực. Do vậy, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững có ảnh hưởng rất lớn tới tính khả thi và hiệu quả của pháp luật.
Các chính sách, chương trình giảm nghèo được xây dựng có cơ sở khoa học từ thực tiễn đầy đủ và toàn diện, các mục tiêu giảm nghèo có tính giải quyết lâu dài và thực thi, cùng với việc triển khai các hoạt động hỗ trợ nghiêm túc, chất lượng sẽ giúp cho người nghèo được tiếp cận đầy đủ các hoạt động trợ cấp và trợ giúp, tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phân phối của xã hội, tiếp cận được các phương thức xây dựng năng lực, phục hồi và phát triển sinh kế ổn định để thoát nghèo bền vững. Đặc biệt, các chính sách của TP. Hồ Chí Minh là những giải pháp cơ sở thiết thực nhất, việc triển khai chính sách được thực hiện chặt chẽ, khoa học ngay từ những khâu đầu tiên sẽ bám sát được đối tượng và đánh giá các vấn đề của nghèo đúng bản chất, các đối tượng nghèo được tiếp cận trợ cấp đầy đủ, đúng quy định… Đây chính là một trong những giải pháp cơ sở hữu hiệu chogiảm nghèo bền vững.
(5) Chất lượng nguồn nhân lực.
Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững là những người trực tiếp tham gia xây dựng các văn bản pháp luật về giảm nghèo. Năng lực, trình độ của cán bộ, công chức là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng các văn bản pháp luật giảm nghèo và triển khai thực hiện công tác giảm nghèo. Do đó, đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý đòi hỏi phải có tư duy khoa học, khả năng nghiên cứu và am hiểu các văn bản chính sách, pháp luật của Nhà nước, có kinh nghiệm thực tế. Ngoài việc tự nghiên cứu, học tập, bổ sung kiến thức thì trong quá trình công tác, đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên được kiểm tra, đánh giá lại năng lực và trình độ chuyên môn. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý cử cán bộ, công chức tham gia các khóa đào tạo, tập huấn để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ và tổ chức các chương trình tọa đàm, trao đổi nhằm chia sẻ kinh nghiệm thực tế. Bên cạnh nâng cao năng lực chuyên môn, cán bộ, công thức thực hiện công tác giảm nghèo phải đi sâu sát trong dân để kịp thời nắm bắt tình hình của các hộ nghèo, hộ cận nghèo của cán bộ để có các giải pháp kịp thời hỗ trợ các hộ thoát nghèo.
(6) Bố trí nguồn lực cho công tác giảm nghèo.
Yếu tố bố trí nguồn lực giảm nghèo ảnh hưởng tới hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh thể hiện ở tính đúng đắn và hiệu quả giúp cho các biện pháp và chương trình giảm nghèo đạt được kết quả mong muốn. Khi nguồn lực được ưu tiên vào những lĩnh vực cần thiết, như: giáo dục, y tế, đào tạo nghề và hỗ trợ sản xuất sẽ có thể giúp người dân nghèo tăng cường năng lực và cơ hội tiếp cận với nguồn lực sản xuất, từ đó giảm thiểu tình trạng nghèo đói. Bố trí nguồn lực một cách hợp lý giúp tăng cường hiệu quả của các chương trình giảm nghèo, từ việc đánh giá nhu cầu, triển khai dự án, đến việc đánh giá và giám sát kết quả. Đầu tư nguồn lực vào các lĩnh vực có khả năng tạo ra giá trị gia tăng và việc làm không chỉ góp phần giúp thoát nghèo mà còn tạo ra cơ hội cho người dân tham gia vào quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững. Ngoài ra, bố trí nguồn lực đúng đắn giúp nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm thiểu tình trạng bệnh tật và yếu kém sức khỏe, tăng cường giáo dục và đào tạo cũng như cải thiện môi trường sống và hạ tầng cơ sở. Việc bố trí nguồn lực một cách minh bạch và công bằng tạo ra niềm tin và sự hỗ trợ từ cộng đồng, tăng cường sự tham gia và đóng góp của họ vào quá trình giảm nghèo.
(7) Ý chí vươn lên thoát nghèo trong cộng đồng người nghèo.
Nhận thức của bản thân người nghèo sẽ có những tác động mạnh mẽ, quyết định tới ý thức vươn lên thoát nghèo bền vững, xóa bỏ tiếp tục ỷ lại; trông chờ vào những trợ giúp từ chính sách. Mặt khác, khi nhận thức được, người nghèo sẽ tự nhận biết được họ có phần trách nhiệm với xã hội (giảm được nguồn trợ cấp cho người nghèo và ưu tiên cho các mục tiêu phát triển khác, giảm thiểu những ô nhiễm gây ra từ đói nghèo đối với cộng đồng xã hội, giảm thiểu tệ nạn…). Nhận thức đúng đắn cùng với các trợ giúp chính sách của Nhà nước phù hợp, có thể đem lại những thành công to lớn trong quá trình thực hiện giảm nghèo bền vững.
3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả giảm nghèo bền vững tại TP. Hồ Chí Minh
Một là, tiếp tục tập trung phát triển kinh tế – xã hội theo đặc trưng của Thành phố trực thuộc Trung ương gắn với phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng. Không chỉ phát triển các ngành công nghiệp truyền thống mà theo hướng công nghiệp cao, dịch vụ và giải trí để tạo môi trường đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, tạo môi trường đầu tư thu hút đầu tư.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng để nâng cao khả năng cạnh tranh và thu hút nước ngoài. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đội ngũ trí thức đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội, phục vụ các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại, nhất là đội ngũ cán bộ công chức, quản lý của Thành phố.
Hai là, tăng cường hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có hoàn cảnh khó khăn có công ăn việc làm ổn định, an toàn với mức thu nhập bảo đảm các dịch vụ xã hội cơ bản. Có các biện pháp giám sát chặt chẽ với các đơn vị sử dụng lao động không thực hiện ký kết hợp động lao động, chế độ đãi ngộ cho người lao động nói chung và các hộ nghèo nói riêng, đồng thời phải có các chế tài nghiêm đối với các cơ sở không thực hiện theo đúng và đủ với người lao động.
Thúc đẩy việc xây dựng các khu nhà ở xã hội, nhà ở tập thể để người có khu nhập thấp được tiếp cận thuê với mức giá ưu đãi, nâng cao đời sống. Quy hoạch đô thị cần chú trọng với quy mô cả người nhập cư, trong đó cần lưu ý tới hộ nghèo, hộ cận nghèo, từ đó có bức tranh tổng thể về người nghèo ở đô thị, từ đó có các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Ba là, hoàn thiện cơ chế, chính sách giảm nghèo bền vững gắn với việc phát triển tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, bảo đảm được mức sống tối thiểu tăng dần và khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người dân. Tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình hoạch định và thực hiện các chính sách giảm nghèo, bảo đảm các chính sách phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế. Đồng thời, cần có chính sách đối với người dân nhập cư, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để họ được hưởng các công trình phúc lợi, hệ thống giáo dục, y tế, an sinh xã hội đáp ứng được nhu cầu cơ bản của nhóm này. Mở rộng, tạo hành lang cơ chế thuận lợi và sự bình đẳng cho các nhóm nhập cư được tiếp cận các dịch vụ xã hội, các dịch vụ bảo trợ,…
Bốn là, đa dạng hóa các nguồn lực tham gia quá trình giảm nghèo bền vững, ngoài nguồn vốn sử dụng nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững, cần huy động sự tham gia của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội vào các chương trình xóa đói, giảm nghèo tại địa phương, giúp phát huy hết mục tiêu của chương trình.
Quan tâm khuyến khích, phát huy các văn phòng khởi nghiệp để nhân rộng các mô hình kinh doanh, sản xuất, dịch vụ đạt hiệu quả, phù hợp với năng lực tham gia của hộ nghèo, hộ cận nghèo tạo phương tiện sinh kế phát triển bền vững. Tuy nhiên, cần có điều chỉnh, sửa đổi, mở rộng các chương trình đào tạo và định hướng nghề nghiệp phù hợp với trình độ, tuổi tác, giới tính, hoàn cảnh, khả năng phát triển của tất cả các nhóm nghèo, đối tượng nghèo và sự tương thích với bối cảnh của thị trường lao động.
4. Kết luận
Nghèo đói là một thách thức nghiêm trọng mà các nước đang phát triển đang phải đối mặt ngày nay, theo đó đòi hỏi phải có những hành động tập trung và bền vững nhằm giảm đáng kể tình trạng này, phá vỡ vòng nghèo đói và cải thiện mức sống. Mặc dù thu nhập là thước đo được sử dụng phổ biến nhất để đo lường và đánh giá, nghèo đói có tính chất đa chiều và kéo theo nhiều khía cạnh khác nhau của phúc lợi xã hội, bao gồm: thực phẩm, nước, vệ sinh, y tế, nơi ở, giáo dục, tiếp cận dịch vụ và nhân quyền. Các nước đang phát triển hiện đang ở các giai đoạn khác nhau thực hiện các chính sách nhằm giảm nghèo và hỗ trợ nhóm người dễ bị tổn thương cũng như cải thiện mức sống. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bao trùm có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong việc tăng sản lượng và thu nhập mà còn bảo đảm rằng lợi ích của tăng trưởng kinh tế được chia sẻ rộng rãi.
Chú thích:
1. Chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh, sinh viên.https://nhandan.vn/chu-trong-giao-duc-chinh-tri-tu-tuong-cho-hoc-sinh-sinh-vien-post782423.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2016). Thông tư số 39/2016/TT- BLĐTBXH ngày 25/10/2016 hướng dẫn quy trình kiểm tra và giám sát, đánh giá thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020.
2. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2018). Thông tư số 14/2018/TT- BLĐTBXH ngày 26/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 17/2016/TT- BLĐTBXH ngày 28/6/2016 hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020.
3. Chính phủ (2011). Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 – 2020.
4. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (2023). Báo cáo tình hình lao động trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 10 tháng năm 2023.
5. Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 08/10/2012 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 – 2015.
6. UBND TP. Hồ Chí Minh (2017). Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 12/8/2017 về thực hiện đề án “Chính sách phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng, gắn phát triển kết cấu hạ tầng trong nước với mạng lưới hạ tầng trong các liên kết khu vực”.
7. Công tác xóa đói, giảm nghèo theo chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tại Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/05/02/cong-tac-xoa-doi-giam-ngheo-theo-chuong-trinh-muc-tieu-quoc-gia-giam-ngheo-ben-vung-tai-viet-nam-hien-nay.
8. Zheng, Y. & Qian, J. (2019). Development and Poverty Reduction: A Global Comparative Perspective.