Quan điểm về “dân thụ hưởng” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam 

TS. Lý Thị Huệ
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Trên nền tảng của phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong việc bảo đảm và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung thành tố về “dân thụ hưởng”. Đây là một điểm mới, thể hiện sự phát triển nhận thức của Đảng về vấn đề xây dựng và bảo đảm thực thi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; khẳng định bản chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: “Nhân dân làm trung tâm”, là chủ thể, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm thực hiện ­hiệu quả phương châm “dân thụ hưởng”, từ đó thể hiện rõ là một trong những động lực cốt lõi để hiện thực hóa định hướng và tầm nhìn trong giai đoạn mới – khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

Từ khóa: Quan điểm của Đảng; dân chủ; dân giám sát; dân thụ hưởng; Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

1. Đặt vấn đề

“Dân thụ hưởng” là một trong những điểm mới rất quan trọng trong tổng thể phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng1 mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, là sự khẳng định sâu sắc hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN). “Dân thụ hưởng” là giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là đích đến cuối cùng, là mục tiêu tối thượng của một nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Lấy “dân làm gốc” là bài học truyền thống trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”2. Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước, Đảng đã bổ sung một nội dung mới, quan trọng và có ý nghĩa vô cùng nhân văn – đó là “dân thụ hưởng”. 

Như vậy, trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng luôn chú trọng đặt quyền lợi của người dân vào vị trí trung tâm mọi chủ trương, đường lối, thể hiện sự quan tâm thiết thực đến đời sống của Nhân dân, đến mục đích cuối cùng là người dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển. Đây là mối quan hệ biện chứng, tương hỗ giữa thụ hưởng và cống hiến, tạo xung lực mới trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Trên cơ sở đó, tạo nền tảng hoàn thiện và hiện thực hóa thêm một bước tư tưởng phát huy quyền làm chủ, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân. Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (khóa XIII) về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, đánh giá quyền làm chủ của Nhân dân được coi trọng, ngày càng đi vào thực chất, nhất là dân chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở, tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, “Tuy nhiên, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong Nhân dân. Một số chính sách chưa sát với thực tiễn, còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện”3.

2. Những nội dung cốt lõi của quan điểm “dân thụ hưởng” 

Thứ nhất, “dân thụ hưởng” là người dân được nhận, được hưởng thành quả của sự phát triển: “Dân thụ hưởng”nhấn mạnh nhân tố lấy “dân làm gốc”, trọng dân, tin dân, để Nhân dân được thụ hưởng đầy đủ thành tựu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Bởi, “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng… nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”4. Đất nước phát triển nhanh và bền vững tạo nền tảng bảo đảm các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội cho người dân được quan tâm, đời sống Nhân dân được cải thiện. Việc thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội giúp Nhân dân, đặc biệt là bộ phận yếu thế trong xã hội, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ổn định sản xuất, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo nhanh, bền vững. Qua đó, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội; bảo đảm công bằng xã hội, góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, đồng thuận, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững đất nước. Các thành tựu phát triển chỉ thực sự vẹn toàn ý nghĩa khi mang lại lợi ích thiết thân cho người dân – mục tiêu đúng đắn và chân chính của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thứ hai, “dân thụ hưởng” là đáp ứng các lợi ích đa dạng trong xã hội của Nhân dân, biến lợi ích thành động lực cho phát triển: “Dân thụ hưởng” nhấn mạnh việc hiện thực hóa nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, “có làm có hưởng”. Động lực chính cho sự phát triển là hài hòa tổng thể lợi ích của cá nhân, tập thể và xã hội. Các “cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân… Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”5. “Dân thụ hưởng” thể hiện sự quan tâm thiết thực đến đời sống của người dân (nghĩa là người dân có quyền được thụ hưởng thành quả tốt đẹp, tiến bộ của sự phát triển). Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để “bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”6. Khi người dân được thụ hưởng, được thỏa mãn lợi ích hợp pháp, chính đáng sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người hăng hái cống hiến, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của đất nước. 

Thứ ba, “dân thụ hưởng” là mọi chủ trương, chính sách phải tạo ra sự thay đổi tích cực trong đời sống của Nhân dân: đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn và từ chính nhu cầu chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”7. Khi chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng ý dân, hợp lòng dân, phát huy tốt vai trò chủ thể của Nhân dân, Nhân dân sẽ tích cực hưởng ứng, tham gia, phong trào sẽ nhanh chóng sâu rộng, được hiện thực hóa trong cuộc sống. “… mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu8

Như vậy, việc thụ hưởng của Nhân dân không chỉ là sự quan tâm của Đảng và Nhà nước mà thông qua chủ trương, chính sách chăm lo, bảo đảm cuộc sống của Nhân dân và thông qua sự chủ động của Nhân dân khi tham gia thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế – xã hội. Nhân dân không chỉ được thông tin đầy đủ, kịp thời, được giám sát việc thực thi chính sách, được tạo điều kiện để tham gia học tập, công tác, lao động, sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bản thân, gia đình và cộng đồng, mà còn được thụ hưởng thành quả đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội. Đây cũng là biểu hiện sinh động của ý Đảng hợp với lòng dân, là quá trình tiếp tục củng cố, bồi đắp niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.

Thứ tư, chủ thể “dân thụ hưởng” là nhấn mạnh tính bao trùm, đến đa số nhân dân lao động, mọi tầng lớp: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân9. Vì vậy, “Dân thụ hưởng” thể hiện quan điểm rất thực tiễn của Đảng – thụ hưởng vật chất và thụ hưởng tinh thần đều rất quan trọng đối với người dân. Từ đó, “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ;… con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện10

Phát triển kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho một nhóm người mà còn phải mang lại lợi ích cho toàn dân, mang lại cuộc sống tốt đẹp nhất cho con người. Việt Nam hướng đến một xã hội phát triển không chỉ giàu có và thịnh vượng về mặt kinh tế, bảo vệ được môi trường, trong đó cân bằng và hài hòa lợi ích giữa các tầng lớp, giữa các nhóm xã hội – một xã hội theo hướng đoàn kết, hợp tác, hướng đến sự cân bằng.

3. Quá trình nhận thức về “dân thụ hưởng” trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân luôn là một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Tại Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta nêu quan điểm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình. Các Đại hội VII, VIII, IX, X của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển nội hàm phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nhất là về điều kiện, cơ chế bảo đảm và môi trường thực hiện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục nhấn mạnh: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”11. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”12.

Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đại hội XIII khẳng định: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”13.

Thực tiễn thực hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” nói chung, bảo đảm và phát huy “dân thụ hưởng” nói riêng trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng và tích cực. Chúng ta đã thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân trong quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của tổ chức và công dân… Tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Đặc biệt, Đảng đã chú trọng đặt quyền lợi của Nhân dân vào trung tâm các quyết sách, đường lối, với mục đích tối thượng là người dân được thụ hưởng mọi thành quả của sự phát triển. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển. Trong quá trình thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc chúng ta đã đạt được những kết quả nổi bật, phát triển những định hướng chính sách nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy vai trò của chính quyền nhà nước trong việc thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp Nhân dân, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc; tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội; chú trọng công tác xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc14.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, vẫn còn những biểu hiện dân chủ hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Ở một số nơi, Nhân dân chưa được biết những vấn đề, nội dung liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình. 

Năng lực, phẩm chất, ý thức kỷ luật của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa cao; còn tình trạng tham nhũng, nhũng nhiễu, gây bức xúc cho người dân, doanh nghiệp. 

Việc thực hiện “dân thụ hưởng” còn một số hạn chế, thiếu thực chất và chưa đầy đủ, tạo thành rào cản lớn đối với sự phát triển của đất nước. 

Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của Nhân dân và chưa giải quyết kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của người dân.

4. Một số đề xuất kiến nghị bảo đảm người dân được thụ hưởng

Một là, để quan điểm, chủ trương “dân giám sát và dân thụ hưởng” của Đảng được thực hiện thắng lợi trong thực tiễn cần quyết tâm rất lớn từ nhận thức đến hành động của cả hệ thống chính trị. Nhận thức phải thống nhất từ trên xuống dưới, nhất là đối với cơ sở. Phương châm “dân thụ hưởng” chỉ trở thành hiện thực khi mối quan hệ giữa người dân và chính quyền trở thành dịch vụ công ích minh mạch. Theo đó, cần có hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho cấp ủy, tổ chính quyền các cấp; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, các cấp hội hợp pháp phối hợp chặt chẽ, hoạt động thuận lợi. Ban Dân vận cấp cơ sở tham mưu cho cấp ủy đảng các bộ, ngành quan tâm rà soát, quán triệt và thực hiện nghiêm túc những nội dung liên quan đến phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ, đẩy mạnh phương châm “dân thụ hưởng”.

Hai là, “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”15. Thực hiện công bằng xã hội phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, bảo đảm Nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội với các trụ cột cơ bản (phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro).

Ba là, phải có chế tài cụ thể để bảo đảm điều kiện thực thi “dân giám sát, dân thụ hưởng”. Theo đó, nếu không làm hoặc làm sai thì phải chịu trách nhiệm. Thậm chí, nếu gây khó dễ cho vai trò giám sát, lợi ích của người dân, gây ảnh hưởng đến lợi ích, quyền lợi chính đáng của người dân thì phải bị xử lý trách nhiệm và đền bù thỏa đáng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tình trạng chế tài chưa đủ mạnh, chưa đủ tính răn đe; dẫn đến đường lối đúng, chủ trương hay nhưng lại bị “méo mó, biến dạng” khi đưa vào thực tiễn cuộc sống.

Cần phát huy quyền làm chủ của người dân gắn quyền lợi với trách nhiệm. Khuyến khích, nâng cao nhận thức cho người dân, tạo điều kiện thúc đẩy việc lắng nghe, trao đổi, đối thoại. Củng cố cơ chế khiếu nại, tố cáo cho hiệu quả; đồng thời, cần có hình thức trọng tài bảo vệ quyền của người dân khi bị ảnh hưởng.

Bốn là, bồi dưỡng, giáo dục, củng cố, phát huy năng lực, tư duy hiện đại và thái độ vì dân phục vụ, tận tụy và cống hiến của đội ngũ công chức, viên chức trong bộ máy công quyền. Đội ngũ này phải thực sự cầu thị, coi trọng ý kiến, phản ánh của người dân cũng như gần gũi, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và bức xúc của người dân để đối thoại, tiếp thu, phản hồi, xử lý nhanh nhạy, kịp thời và hiệu quả. “Dân thụ hưởng” phải được bắt đầu từ việc “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”16 của đội ngũ công chức, viên chức. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị phải luôn thấm nhuần bài học: Đảng ta lấy lợi ích của Nhân dân để định hướng mục tiêu lãnh đạo, lấy sự ủng hộ của Nhân dân làm chỗ dựa cho hành động; lấy sự hài lòng của Nhân dân làm thước đo kết quả.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh có chất lượng việc sắp xếp tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả bộ máy hành chính, công quyền, trong đó tập trung: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”17. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tăng cường phân công, phân cấp; mạnh dạn trao quyền tự chủ cho địa phương, cơ sở, nhấn mạnh trách nhiệm và phát huy sáng tạo của người đứng đầu. Bảo đảm sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ trên cơ sở “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”18 để mọi người dân đều được thụ hưởng công bằng, bình đẳng.

5. Kết luận:

Từ sự phân tích quan điểm của Đảng về “dân thụ hưởng” trong Văn kiện Đại hội XIII cho thấy, trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt “Nhân dân là trung tâm”, là chủ thể của xã hội. Đồng thời, Đảng ta yêu cầu phải có cơ chế bảo đảm “dân thụ hưởng”, là chủ thực sự của xã hội. Chính thực tiễn công cuộc đổi mới là cơ sở khách quan cho những nhận thức đó. Tuy nhiên, “nhận thức là một quá trình đi từ hiện tượng tới bản chất”, nhận thức và hoàn thiện cơ chế vận hành bảo đảm thực sự “dân thụ hưởng”, cũng là một quá trình như vậy.

Chú thích:
1, 13, 15, 16, 17, 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27, 172 – 173, 28, 118, 118, 118.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia  Sự thật, tr. 434.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
4, 5. Hồ Chí Minh toàn tập (2021). Tập 4. H, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 64, 64 – 65, 
6, 8, 10. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27, 28, 24.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2021). Tập 12. H, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 402.
9. Hồ Chí Minh toàn tập (2021). Tập 6. H, NXB Chính trị quốc gia Sự thật tr. 232.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 84 – 85.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 170.
14. Phạm Tất Thắng (2023). Phát huy sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay. Tạp chí Dân vận, tháng 10/2023, tr. 23 – 29.