Cấu trúc câu trong văn bản quy phạm pháp luật – thực trạng và một số vấn đề đặt ra

TSĐỗ Thị Thanh Nga
Học viện Hành chính Quốc gia

(Quanlynhanuoc.vn) – Văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Để một văn bản quy phạm pháp luật phát huy được hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động quản lý, ngoài việc phải bảo đảm đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành, văn bản phải vận dụng ngôn ngữ với tư cách là phương tiện biểu đạt thông tin một cách hiệu quả nhất. Trong đó, câu là một đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất thực hiện được chức năng thông báo và giữ vị trí rất quan trọng. Bài viết khảo sát thực trạng các kiểu cấu trúc câu và đề xuất sử dụng hiệu quả cấu trúc câu trong văn bản quy phạm pháp luật.

Từ khóa: Văn bản; văn bản quy phạm pháp luật; câu; cấu trúc câu.

1. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu

a. Cơ sở lý thuyết

Văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ gọt giũa, được dùng trong lĩnh vực pháp luật và hoạt động quản lý nhà nước, được soạn thảo theo một khuôn mẫu nhất định; chứa đựng hiệu lực có tính quy định hay bắt buộc một cá nhân, đơn vị chịu trách nhiệm thi hành, chấp hành.

Theo Điều 2 Luật Ban hành quy phạm pháp luật năm 2015, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định trong Luật này.

Về mặt pháp luật, yêu cầu về câu được quy định tại Điều 21 Thông tư số 25/2011/TT-BTP ngày 27/12/2011 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch:

“1. Câu văn phải đầy đủ về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức và bảo đảm tính liên kết giữa các bộ phận của câu văn.

2. Các quy phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung, phải được trình bày ngắn gọn, rõ ràng, chính xác.

3. Câu văn phải ngắn gọn, trong sáng; không dùng từ thừa trong câu.

4. Không sử dụng câu nghi vấn và câu cảm thán trong văn bản”.

Mục đích diễn đạt của văn bản quy phạm pháp luật là nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng; tạo hành lang pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Chính vì vậy, yêu cầu tổng quát nhất đối với câu trong văn bản quy phạm pháp luật xét về phương diện cấu tạo phải bảo đảm những điểm: (1) Đúng phương thức ngữ pháp tiếng Việt. (2) Bảo đảm tính khuôn mẫu theo từng thể loại văn bản. (4) Chỉ dùng dấu chấm để kết thúc câu, dù đó là cấu tạo đơn, phức hay ghép. (5) Bảo đảm sự liên kết hình thức với các câu trong đoạn văn và toàn văn bản thông qua các phép liên kết. (6) Kết cấu cú pháp chặt chẽ, logic; không rườm rà, lủng củng.

b. Phương pháp nghiên cứu

Để xác định các kiểu cấu tạo câu được dùng trong văn bản quy phạm pháp luật, chúng tôi tiến hành khảo sát một số thể loại văn bản quy phạm pháp luật gồm: Hiến pháp năm 2013, luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư, lệnh của Chủ tịch nước, nghị quyết. Thông qua đó, rút ra kết luận về việc có hay không có sử dụng tất cả các kiểu câu tiếng Việt (xét theo phương diện cấu tạo ngữ pháp) trong văn bản quy phạm pháp luật. Tổng số văn bản quy phạm pháp luật được khảo sát là 29 văn bản, bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật ban hành qua các thời kỳ khác nhau.

2. Đặc điểm cấu trúc câu trong văn bản quy phạm pháp luật

Kết quả khảo sát cho thấy, các cấu trúc cú pháp của câu được dùng trong văn bản quy phạm pháp luật đều là những cấu trúc cú pháp điển hình của tiếng Việt. Đó là cấu trúc câu đơn, câu phức và câu ghép với đầy đủ các thành phần nòng cốt và các thành phần phụ cần thiết. Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật dùng để thể chế hóa đường lối của Đảng, là hành lang pháp lý của hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giữ vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội, đồng thời là bộ phận hợp thành quan trọng nhất của hệ thống văn bản quản lý nhà nước nên việc sử dụng câu trong văn bản quy phạm pháp luật có một số đặc điểm riêng, nổi bật như sau:

Thứ nhất, sử dụng câu đơn đặc biệt biểu thị các thành phần thể thức và đề mục văn bản.

Văn bản quy phạm pháp luật được soạn thảo theo thể thức quy định nên có các yếu tố thuộc về khuôn mẫu, như: quốc hiệu, tác giả, số, ký hiệu, địa danh ngày, tháng, tên loại văn bản, nơi nhận, chức danh ký, chữ ký… Những yếu tố này được coi như một câu đơn đặc biệt của tiếng Việt với cấu trúc một từ hoặc một cụm từ.

Biểu thức cấu tạo câu đơn đặc biệt trong văn bản quy phạm pháp luật được thiết kế là một từ hoặc một cụm từ: Thí dụ: Lệnh, Bảo vệ Tổ quốc, Trách nhiệm hướng dẫn thi hành… Trong đó, câu đơn với kết cấu danh từ, cụm danh từ được dùng phổ biến hơn câu đơn có kết cấu động từ, cụm động từ. Ví dụ, tại Hiến pháp năm 2013 sử dụng 13 câu đơn đặc biệt danh và cụm danh từ nhưng chỉ có 1 câu đơn đặc biệt cụm động từ.

Thứ hai, sử dụng câu đơn hai thành phần.

Trong văn bản quy phạm pháp luật, câu đơn bình thường có tần số xuất hiện nhiều hơn câu đặc biệt, thông thường theo trật tự thuận: chủ ngữ trước, vị ngữ sau (C – V). (ví dụ: Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam). Tuy nhiên, để tăng lượng thông tin, cấu trúc C – V thường được mở rộng nòng cốt bằng các thành phần đồng chức ở bộ phận chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, bổ ngữ hoặc đề ngữ của câu. Các cấu trúc thường gặp của câu đơn mở rộng thành phần là: C1, C2,.. – V; C – V1, V2,V3…; C – V, BN1, BN2…; TR1,TR2,…C – V. (ví dụ: Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh).

Cấu trúc kiểu câu luận cũng thường xuất hiện trong văn bản quy phạm pháp luật. Câu luận biểu thị một quá trình tư duy và thông báo có tính chất một sự suy luận theo đẳng thức X = Y, trong đó X là sự vật chủ thể, Y là đặc trưng nhận thức về sự vật ấy. Nòng cốt của câu luận rất điển hình với dạng Danh là Danh. Thông qua quá trình suy luận mà xác định được đặc trưng của sự vật. (ví dụ: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân).

Kiểu cấu trúc câu tả danh – động, danh – tính được dùng để trình bày trạng thái, tính chất của sự vật hiện tượng. Kiểu cấu trúc này được sử dụng nhiều trong văn bản quy phạm pháp luật, tạo thành những câu trần thuật thông tin rất rõ ràng, mạch lạc và ngắn gọn. (ví dụ: Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật).

Thứ ba, câu theo khuôn mẫu định sẵn.

Điểm nổi bật ở nhiều kiểu loại văn bản quy phạm pháp luật như nghị định, nghị quyết, quyết định, lệnh là câu đã được mẫu hóa theo quy định của Nhà nước. Cơ quan soạn thảo văn bản phải tuân theo các cấu trúc định sẵn này. 

Thứ tư, kết cấu siêu câu/trường cú được sử dụng phổ biến. 

Một số loại văn bản quy phạm pháp luật, như: quyết định, nghị quyết, nghị định thì toàn bộ thành phần nội dung của văn bản có thể được coi là một siêu câu/câu lớn/trường cú, trong mỗi trường cú ấy lại bao chứa nhiều câu khác nhau. Trong văn bản quyết định, mỗi căn cứ ra quyết định lại là một mệnh đề tỉnh lược chủ ngữ được sắp xếp theo kiểu liệt kê, nối tiếp nhau và đồng chức, mỗi điều là một câu diễn đạt một thông tin tương đối trọn vẹn. Còn trong văn bản nghị định, mỗi điều của nghị định lại được diễn đạt bằng một câu đơn có thành phần phụ, có nòng cốt (C-V) hoặc bằng một câu ghép có nhiều thành phần. 

Siêu câu hay trường cú còn được thể hiện ở dạng một câu có dung lượng âm tiết lớn. Xem xét cấu trúc cú pháp trong văn bản quy phạm pháp luật, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, câu dài là một đặc trưng của ngôn ngữ luật pháp. Trosborg, A. (1997) tính trung bình trong một câu có tới 50 đơn vị từ1. Dương Thị Hiền (2008)2; Lê Hùng Tiến (2002)3 cũng đề cập đến một đặc điểm cú pháp quan trọng của văn bản pháp luật nói chung và Hiến pháp nói riêng là có độ dài bất thường (trung bình có độ dài gấp hai, ba lần so với câu trong các thể loại văn bản khác).

Văn bản quy phạm pháp luật thường sử dụng các loại câu dài có nhiều thành phần đồng chức nhằm trình bày trọn vẹn một nội dung thông báo lớn với 2 dạng:

– Dạng 1: A a1; a2; a3; a4. (hoặc a1; a2; a3; a4). Trong đó, A là chủ ngữ chung, a1, a2, a3, a4…là các mệnh đề đồng chức, mệnh đề liệt kê.

– Dạng 2: A như sau (để, là, sau đây, gồm có…):

I/1/a/- […];

II/2/b/- […];

III,3/c/- […].

Các thành phần đồng chức là các mệnh đề được trình bày riêng thành từng dòng, có dấu gạch đầu dòng (hoặc các số Ả rập; các chữ cái a, b, c,… dấu gạch ngang…) đặt trước. Sau mỗi mệnh đề, mỗi ý có thể dùng dấu chấm phẩy. 

Kiểu cấu trúc như dạng thứ 2 rất phổ biến trong văn bản quy phạm pháp luật. Đây chính là kiểu câu có nhiều bộ phận liệt kê. Đặc biệt, trong các văn bản như Hiến pháp, luật, quy định, nghị định. Một ý tổng quát, ý chủ đề được đưa ra, sau đó có những ý cụ thể có tác dụng minh hoạ, làm rõ nghĩa được trình bày thành một hệ thống. Bằng kiểu kết cấu này, những câu có độ dài rất lớn nhưng nội dung vẫn rất rõ ràng, minh bạch, người đọc dễ theo dõi, dễ tiếp thu và tất nhiên, việc thực hiện sẽ chính xác. Thường thấy trước phần liệt kê, có những từ: sau đây, để, là, như sau…

Thứ năm, sử dụng phổ biến cấu trúc tỉnh lược.

Cấu trúc tỉnh lược giúp cho câu văn trong văn bản quy phạm pháp luật gọn gàng, tránh sự trùng lặp, dài dòng, đồng thời làm nổi bật những thông tin trọng tâm. Cấu trúc tỉnh lược được sử dụng như là một hình thức chuyên biệt để trình bày các quy định mà đối tượng đặt ra quy định hoặc đối tượng chịu sự điều chỉnh của quy định (đối tượng áp dụng của quy định) đã được xác định rõ. Nói cách khác, cấu trúc tỉnh lược chỉ được dùng trong trường hợp đối tượng đọc văn bản đã xác định được văn cảnh. Đặc biệt, cấu trúc tỉnh lược rất hay được sử dụng để trình bày các mệnh lệnh, nhất là những mệnh lệnh cấm đoán được biểu đạt bằng các từ cấm, nghiêm cấm; vừa để bảo đảm tính ngắn gọn, vừa để cô đọng, nổi bật trọng tâm thông tin và tăng uy lực của mệnh lệnh vì diễn ngôn mệnh lệnh rút gọn bao giờ cũng mạnh mẽ và có uy lực hơn diễn ngôn mệnh lệnh dài. 

Biểu thức cấu trúc tỉnh lược trong văn bản quy phạm pháp luật được thiết kế như sau: 

A (như sau, để, gồm, sau đây…):

1. H1.

2. H2.

3. …

Trong đó, A là chủ ngữ, đề mục bao trùm; H1, H2,… là các câu tỉnh lược chủ ngữ, đề mục A và được trình bày riêng thành từng dòng. 

Thứ sáu, sử dụng đề ngữ.

Đề ngữ là thành phần câu có quan hệ với một bộ phận nào đó trong phần câu còn lại, và vị trí đặc thù của đề ngữ là đứng ở đầu câu. Để xác định đề ngữ, người ta thêm vào trước đó các quan hệ từ như: về, đối với, với. Về mặt sử dụng, đề ngữ được dùng để nêu lên đề tài của câu nói chứa nó, với tư cách là điểm xuất phát của câu nói, và nó không có quan hệ chủ vị với phần đứng sau nó. Về phương diện hình thức, đề ngữ giống như trạng ngữ của câu. Nhưng về phương diện nghĩa, nó có quan hệ chặt chẽ với câu trong tư cách đề tài của câu.

Câu văn trong văn bản quy phạm pháp luật hay được mở đầu bằng đề ngữ và được sử dụng khi đặt tiêu đề cho chương, phần, mục, điều, khoản, điểm… Giá trị của thành phần đề ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật là: (1) Làm nổi bật tiêu điểm – trọng tâm thông tin của chuỗi mệnh đề/câu trong toàn khối (chương, phần, mục, điều, khoản, điểm…); (2) Nêu chủ đề chung bao trùm và làm cơ sở để cho phép thực hiện cấu trúc tỉnh lược ở các mệnh đề/câu trong toàn khối, giúp cho việc tinh giản câu, từ. Số lượng câu có sử dụng đề ngữ trong văn bản quy phạm pháp luật rất phổ biến. Chẳng hạn, trong 87 điều của Luật Cán bộ, Công chức năm 2008, có tới 61 điều có cấu trúc đề ngữ, chiếm tỷ lệ 70,1%.

Thứ bảy, cấu trúc đảo thành phần, đảo mệnh đề.

Trong văn bản quy phạm pháp luật, cấu trúc cú pháp theo trật tự thuận chiếm ưu thế hơn so với cấu trúc đảo thành phần. Cấu trúc đảo thành phần được dùng khi muốn nhấn mạnh thông tin ở bộ phận đảo. Ví dụ: Đối với quyết định của Thủ tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ký ban hành. Trong văn bản quy phạm pháp luật, cấu trúc đảo thành phần ít được sử dụng bởi phương thức trật tự từ của tiếng Việt chi phối việc đảo trật tự từ, trật tự các thành phần câu dễ dẫn đến sự thay đổi về nghĩa của câu. Điều này ảnh hưởng tới tính chính xác của văn bản.

Thứ tám, sử dụng dấu câu.

Do yêu cầu và đặc điểm của câu trong văn bản quy phạm pháp luật nên trong văn bản chỉ được phép sử dụng dấu chấm, dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu chấm phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu ngoặc kép và dấu gạch ngang. Kết quả khảo sát cho thấy, trong văn bản không sử dụng dấu chấm lửng, dấu hỏi chấm, dấu chấm than, dấu ngoặc vuông.

3. Đề xuất sử dụng hiệu quả cấu trúc câu trong văn bản quy phạm pháp luật 

Thứ nhất, ưu tiên sử dụng câu ngắn có cấu trúc chặt chẽ, logic; triệt tiêu các thành phần tình thái, yếu tố đưa đẩy.

Việc sử dụng các trường cú trong văn bản quy phạm pháp luật là cần thiết nhưng không nên lạm dụng. Một câu dài nếu không được xử lý tốt về ngữ pháp sẽ khiến cho các quy định pháp lý trở nên rắc rối, khó hiểu và khó thực hiện. Nên ưu tiên sử dụng trường cú trong trường hợp cần liệt kê các mệnh đề đồng chức. Các trường hợp còn lại nên rút ngắn dung lượng của câu hoặc tạo một bộ phận bao trùm để hình thành nhóm câu tỉnh lược, giúp cho việc tiếp nhận thông tin trở nên dễ dàng hơn.

Thứ hai, ưu tiên sử dụng biện pháp tách dòng.

Trong trường hợp bắt buộc phải dùng câu dài mới thể hiện hết được những quy định pháp lý hay thông tin quản lý thì nên sử dụng kỹ thuật tách dòng để việc truyền đạt được rành mạch, rõ ràng, nổi rõ hệ thống vấn đề. Tức là tách các thành phần của câu, nhất là các thành phần đồng chức ra thành từng dòng, từng đoạn và đánh thứ tự cho hệ thống các mệnh đề bằng dấu gạch đầu dòng, số Ả rập, chữ cái….

Kết cấu này đã được văn bản quy phạm pháp luật sử dụng khi thể hiện nội dung của các điều,khoản. Tác dụng của kiểu kết cấu này là giúp giảm bớt các từ ngữ trùng lặp, đồng thời thể hiện rõ tính logic của các thành phần đồng chức trong câu. Vì vậy, câu tuy dài mà vẫn rành mạch, người đọc văn bản dễ theo dõi và dễ nắm bắt thông tin chi tiết và có được cái nhìn khái quát đối với nội dung vấn đề được trình bày. 

Cấu trúc câu theo dạng: A a1; a2; a3; a4. với mục đích liệt kê nhiều đối tượng, nhiều sự việc tương đương nhau, khiến cho thông tin của từng mệnh đề có thể bị nhoà, khiến người đọc dễ bỏ qua hoặc không chú trọng tới thông tin. Do dó, cấu trúc A a1; a2; a3; a4 nên đổi thành:

A (như sau, để, gồm, sau đây):

– a1;

– a2; 

– a3. 

Với cấu trúc này, thông tin từ các mệnh đề sẽ được sáng tỏ và người đọc dễ dàng tiếp nhận thông tin do câu biểu đạt.

Thứ ba, tăng cường lối tách câu.

Tách câu là tách một bộ phận của câu thành một câu riêng biệt. Trong một câu có nhiều bộ phận, muốn làm người đọc chú ý vào thông tin ở một bộ phận câu nào đó hoặc muốn nhấn mạnh thông tin nào đó trong câu, người ta dùng kỹ thuật tách câu. Cú pháp điển hình của lối tách câu được mô tả như sau:

Điều n. A:

1. […].

2. […].

3. […].

Trong đó, 1, 2, 3 là các mệnh đề của A và được tách riêng thành từng mệnh đề độc lập, kết thúc mỗi mệnh đề bằng dấu chấm, đầu mỗi mệnh đề viết hoa chữ cái đầu tiên. Thông tin do các mệnh đề biểu đạt sẽ tường minh, người đọc văn bản dễ tiếp nhận thông tin hơn so với việc trình bày liền mạch A: 1, 2, 3. Hoặc mô hình khác (chẳng hạn: S-V.O1. O2). Tách bộ phận bổ ngữ thành một câu độc lập…

Thứ tư, không nên sử dụng cấu trúc đảo thành phần trong văn bản quy phạm pháp luật.

Cấu trúc cú pháp thuận có tác dụng giúp việc tiếp nhận thông tin mà câu biểu đạt nhanh chóng, dễ dàng như thói quen tư duy của người Việt. Cấu trúc đảo thành phần ở một mức độ nào đó khiến người đọc lúng túng, băn khoăn, mơ hồ khi xác định mạch ngữ nghĩa – ngữ pháp của câu. Đối với câu ghép phụ thuộc, văn bản quy phạm pháp luật sử dụng với tần số cao. Đặc biệt là câu ghép điều kiện – kết quả. Trật tự thuận là vế điều kiện đứng trước, vế chỉ kết quả đứng sau và thông tin được diễn đạt tường minh, dễ hiểu. Việc sử dụng trật tự thuận đối với câu ghép phụ thuộc là một ưu điểm của văn bản quy phạm pháp luật nên tăng cường sử dụng câu với trật tự thuận.

Thứ năm, tăng cường sử dụng kết cấu bao trùm để diễn đạt nghĩa “tất cả”, “toàn bộ” về đối tượng, sự việc

Kiểu kết cấu này không chi tiết hóa sự việc, đối tượng mà diễn đạt nội dung một cách khái quát, bao trùm nhưng lại đầy đủ. Văn bản quy phạm pháp luật nên ưu tiên sử dụng kết cấu này trong trường hợp cần liệt kê tất cả sự việc, đối tượng có chung một đặc điểm, một cách thức, một nội dung điều chỉnh… Kết cấu câu theo dạng bao trùm thường bắt đầu bằng “các”, sau đó là vấn đề, sự việc được trình bày, liệt kê. Ví dụ: Các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

Thứ sáu, tuân thủ các cấu trúc khuôn mẫu và tăng cường mẫu hóa câu văn trong văn bản quy phạm pháp luật. 

Tính khuôn mẫu bảo đảm cho sự thống nhất, kỷ cương, chuẩn mực của văn bản, giúp cho việc tăng năng suất và chất lượng soạn thảo văn bản, tránh được những sai sót trong quá trình soạn thảo văn bản, qua đó tạo thuận lợi cho việc lập hồ sơ, sắp xếp tài liệu trong công tác văn thư, lưu trữ. Tính khuôn mẫu cũng giúp cho người thực hiện văn bản dễ tiếp nhận nội dung thông tin, biết chỗ nào là quan trọng cần chú ý, chỗ nào có thể lướt qua. Và ở một mức độ, tính khuôn mẫu cũng đem lại sự cân đối, thẩm mỹ cho văn bản. 

Về ngôn ngữ, văn bản quy phạm pháp luật được phép dùng lặp đi, lặp lại những câu, những từ, những cấu trúc có sẵn mà không vi phạm lỗi lặp từ, lặp câu. Đã có một số mẫu câu được sử dụng trong một số thể loại văn bản, giúp cho người soạn thảo văn bản thuận lợi khi diễn đạt thông tin pháp lý, quản lý, đồng thời giúp người đọc tiếp nhận thông tin dễ dàng, chính xác và nhất quán.

Tuy nhiên, số lượng câu được mẫu hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa nhiều. Việc diễn đạt các thông tin pháp lý trong văn bản chủ yếu vẫn dựa theo trình độ, thói quen, kinh nghiệm của người soạn thảo văn bản mà chưa có những chỉ dẫn thống nhất mang tính quy thức. Chẳng hạn, một điều khoản, nhưng mỗi văn bản lại trình bày một kiểu khác nhau. Vì vậy, tác giả đã đề xuất một số mẫu cấu trúc trường cú, tỉnh lược, tách câu trong văn bản.

Ngoài ra, cũng cần thiết kế nhiều hơn nữa các mô hình cấu trúc câu trong văn bản quy phạm pháp luật, như: cấu trúc trình bày các căn cứ ban hành văn bản; cấu trúc giải thích thuật ngữ trong văn bản; cấu trúc các điều khoản; cấu trúc quy định phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng/điều chỉnh; cấu trúc ban hành quy chế, điều lệ…; cấu trúc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một cơ quan, đơn vị, tổ chức… Vấn đề này cũng được các tác giả Vũ Thí Sao Chi (2012) quan tâm đề xuất: “Các cấu trúc này cần được chuẩn hóa tiến tới pháp lý hóa để chúng được phổ biến rộng rãi, được sử dụng thống nhất trong tất cả các cơ quan và nhất là được cơ quan soạn thảo và ban hành văn bản sử dụng chính xác”4

4. Kết luận

Xét theo phương diện cấu tạo, văn bản quy phạm pháp luật sử dụng hầu hết các kiểu câu tiếng Việt. Tuy nhiên, do phải đảm nhiệm chức năng truyền đạt thông tin pháp lý, quản lý một cách chính xác, chặt chẽ, rõ ràng, dễ hiểu nên cấu tạo ngữ pháp câu trong văn bản quy phạm pháp luật có những điểm khác biệt so với câu thuộc các thể văn bản báo chí, khoa học, nghệ thuật hay chính luận. Ngoài câu đơn, văn bản sử dụng rất điển hình các “siêu câu”, trường cú có nhiều mệnh đề liệt kê. Sử dụng câu có một mệnh đề bao trùm với nhiều cấu trúc tỉnh lược nối tiếp. Sử dụng lối tách dòng và lối tách các bộ phận ngữ pháp của câu thành một câu độc lập nhằm nhấn mạnh thông tin và tạo cho đối tượng tiếp nhận dễ hiểu, hiểu chính xác và dễ thực hiện nội dung mà văn bản điều chỉnh. Sử dụng câu có đề ngữ khi biểu đạt các quy phạm pháp luật tường minh… 

Từ thực trạng sử dụng cấu trúc câu trong văn bản quy phạm pháp luật, nên hạn chế sử dụng câu dài, tăng cường sử dụng lối diễn đạt ngắn gọn, logic; không sử dụng các thành phần tình thái, các yếu tố đưa đẩy trong câu; tăng cường biện pháp tách dòng, chuyển các mệnh đề nối tiếp của câu thành các dòng riêng biệt, có ký hiệu đặt trước mỗi mệnh đề; chú trọng việc tách câu khi muốn nhấn mạnh thông tin ở một bộ phận câu nào đó; hạn chế tối đa việc đảo cấu trúc cú pháp câu. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật trong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giúp cho văn bản quy phạm pháp luật đạt được hiệu quả biểu đạt thông tin pháp lý, quản lý tốt hơn, phát huy hiệu lực, vai trò đối với hoạt động quản lý nhà nước.

Chú thích:
1. Trosborg, A. (1997). Rhetorical Strategies in Legal Language. Gunter Narr Verlag Tubingen Press.
2. Dương Thị Hiền (2008). Phân tích ngôn ngữ văn bản pháp luật qua Hiến pháp Hoa Kì và Hiến pháp Việt Nam. Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Hùng Tiến (2002). Phân tích diễn ngôn văn bản luật pháp tiếng Việt so sánh với tiếng Anh và ứng dụng trong dịch văn bản luật pháp.  Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số: QN.00.01, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
4. Vũ Thị Sao Chi (2012). Vấn đề sử dụng câu trong văn bản hành chính tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữ, số 10/2012.
Tài liệu tham khảo:
1. Diệp Quang Ban (2000). Ngữ pháp tiếng Việt. H. NXB Giáo dục.
3. Võ Bình, Lê Anh Hiền, Cù Đình Tú, Nguyễn Thái Hòa (1982). Phong cách học tiếng Việt. H.NXB Giáo dục.
4. Vũ Ngọc Hoa (2012). Hành động ngôn từ cầu khiến trong văn bản hành chính. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Vương Đình Quyền (2005). Lý luận và phương pháp công tác văn thư. H. NXB Đại học Quốc gia. 
6. Nguyễn Thế Truyền (2004). Tìm hiểu tính chính xác của ngôn ngữ luật pháp tiếng Việt. Tạp chí Ngôn ngữsố 1/2004.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011).  Giáo trình Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. H. NXB Giáo dục.