ThS. Lê Ngọc Hưng
Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Công dân có vai trò quan trọng trong đấu tranh, phòng, chống tham nhũng. Công dân có vai trò và địa vị xã hội khác nhau vì vậy cũng có vai trò khác nhau trong phòng, chống tham nhũng. Bài viết nghiên cứu việc thực hiện vai trò của công dân và đề xuất một số giải pháp đề cao vai trò của công dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng hiện nay.
Từ khóa: Vai trò của công dân, đấu tranh, phòng chống tham nhũng.
1. Cơ sở xác định hành vi tham nhũng
Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), tham nhũng là sự “lạm dụng quyền lực công cộng nhằm lợi ích cá nhân“. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI) cho rằng, tham nhũng là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân“.
Theo Từ điển tiếng Việt, “tham nhũng” được hiểu là hành vi “lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân và lấy của”1. Từ điển Luật học giải thích: “tham nhũng” được hiểu là (hành vi) lợi dụng chức vụ, quyền hạn hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”2.
Ở Việt Nam, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 định nghĩa: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 1 Điều 3).
Như vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về tham nhũng nhưng nhìn chung đều thống nhất ở việc coi tham nhũng là việc lợi dụng quyền lực để vụ lợi. Theo đó, tham nhũng theo nghĩa rộng, là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn trong cả khu vực nhà nước và khu vực tư nhân đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi. Tham nhũng theo nghĩa hẹp, là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực nhà nước đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
2. Vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Theo Robertsons vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ được gắn liền với một vị thế xã hội nhất định3. Thuật ngữ “vai trò” theo Đại từ điển tiếng Việt có nghĩa là “chức năng, tác dụng của cái gì hoặc của ai trong sự vận động, phát triển của nhóm tập thể nói chung”4. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa thông tin thì “vai trò có hai nghĩa: một là, cách hành động, ăn ở cư xử trong cuộc sống bình thường hay trong một hoàn cảnh nào đó của một người; hai là, nói về tác dụng, ảnh hưởng của một phần việc, một hành động của một người, cơ quan, tổ chức…5
Vai trò của xã hội nói chung và công dân nói riêng thể hiện ở việc thực hiện chức năng giám sát, phản biện đối với hoạt động của bộ máy nhà nước trong công tác phòng, chống tham nhũng. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã có những quy định cụ thể để tạo cơ sở pháp lý cho công dân tham gia vào đấu tranh chống tham nhũng qua việc quy định trách nhiệm của công dân tham gia công tác phòng, chống tham nhũng.
Vai trò của công dân trong phòng, chống tham nhũng là nội dung được ghi nhận trong Luật Phòng, chống tham nhũng dưới hình thức trách nhiệm và được hướng dẫn, giải thích cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành của Luật Phòng, chống tham nhũng.
(1) Vai trò của công dân (bình thường) trong phòng, chống tham nhũng bao gồm các nội dung sau: chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống tham nhũng; lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng; phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng; hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền trong việc xác minh, xử lý hành vi tham nhũng; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống tham nhũng; góp ý kiến xây dựng pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
(2) Vai trò của công dân là cán bộ, công chức, viên chức trong phòng, chống tham nhũng: có trách nhiệm thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức; có nghĩa vụ báo cáo về các hành vi có dấu hiệu tham nhũng; có nghĩa vụ chấp hành các quy định về phòng chống tham nhũng, như: quy định chuyển đổi vị trí công tác của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kê khai tài sản…
Ngoài ra, nếu cán bộ, công chức có chức vụ quản lý còn phải tiếp nhận, giải quyết các nội dung phản ánh, báo cáo về hành vi, vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; là người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
3. Thực tiễn sự tham gia của công dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về vấn đề này, bên cạnh đó đã tham gia tích cực các diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và hệ thống pháp luật phòng, chống tham nhũng đã được kích hoạt tạo ra bước chuyển biến khá tích cực, tuy nhiên tình trạng tham nhũng vẫn diễn biến khá phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước gây hậu quả xấu về nhiều mặt.
Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng đã và đang còn xuất hiện trong mọi khâu, mọi lĩnh vực, ở mọi ngành, mọi cấp. Từ các cơ quan quản lý, các đơn vị hành chính sự nghiệp tới các doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội, tổ chức. Tham nhũng không loại trừ xuất hiện ngay trong các cơ quan bảo vệ pháp luật (tòa án, viện kiểm sát, quân đội, cảnh sát…).
Thời gian qua, nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, vai trò của công dân trong việc phòng, chống tham nhũng được phát huy. Nhiều tấm gương cán bộ, công chức và người dân đã dũng cảm tố cáo hành vi tham nhũng. Ngoài ra, các cơ quan chức năng đã phát hiện được những sơ hở, yếu kém trong quản lý nhà nước và những hạn chế, bất cập trong các cơ chế, chính sách, pháp luật để từ đó chấn chỉnh quản lý và hoàn thiện thể chế trên nhiều lĩnh vực góp phần phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ, sự giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, sự vào cuộc của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, sự ủng hộ của Nhân dân, công tác phòng, chống tham nhũng tiếp tục được triển khai đồng bộ và đạt được những kết quả tích cực trên các mặt, như: xây dựng và hoàn thiện thể chế về phòng, chống tham nhũng; tổ chức và có cơ chế lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng; cải cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội, các cơ quan báo chí trong phòng, chống tham nhũng,…
Tham khảo số liệu trong Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) trong các năm từ năm 2015 – 2022, chỉ số CPI của Việt Nam liên tục được cải thiện, năm 2021 xếp thứ 87/180, năm 2022 xếp thứ 77/180 nước trong bảng đánh giá về tham nhũng ở khu vực công cho thấy, việc điều chỉnh một số giải pháp phòng, chống tham nhũng đã bước đầu phát huy được hiệu quả trong việc hạn chế phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng được thực hiện thường xuyên, chủ động và hiệu quả; nhiều vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm đã được đưa ra xét xử nghiêm minh theo quy định của pháp luật được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, đánh giá tốt. Điều này đã khẳng định những thành quả của lỗ lực trong công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian qua.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc người dân vẫn còn tâm lý né tránh, sợ bị trả thù, còn chưa thực sự tích cực tham gia công tác phòng, chống tham nhũng, đòi hỏi cần thiết phải có một cơ chế, chế tài đủ mạnh để bảo vệ người dân tham gia phòng, chống tham nhũng. Công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp ứng với yêu cầu và kỳ vọng của Nhân dân, như: công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về phòng, chống tham nhũng chưa tạo được chuyển biến căn bản về nhận thức của người dân trong phòng, chống tham nhũng. Trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tính tiên phong, gương mẫu của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa cao; việc thực hiện các giải pháp phòng, chống tham nhũng tại nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, còn mang tính hình thức; một số giải pháp phòng, chống tham nhũng hiệu quả thấp.
Việc thực hiện các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản của người có chức vụ, quyền hạn; việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu chưa nghiêm; số người đứng đầu bị xử lý trách nhiệm chưa tương xứng với số vụ tham nhũng được phát hiện, xử lý; số người được chuyển đổi vị trí công tác nhằm phòng, chống tham nhũng còn ít; có nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị còn nhầm lẫn giữa chuyển đổi vị trí công tác với việc luân chuyển, điều động cán bộ…; việc rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những sơ hở của cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý kinh tế – xã hội còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phòng, chống tham nhũng; việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị còn rất yếu, một số trường hợp chưa xử lý triệt để, muốn xử lý nhẹ, xử lý nội bộ, không muốn chuyển sang cơ quan chức năng xem xét để xử lý theo quy định pháp luật; hiệu quả hoạt động của một số cơ quan, đơn vị phòng, chống tham nhũng chưa đáp ứng yêu cầu.
Vai trò tham gia của công dân trong công tác phòng, chống tham nhũng còn hạn chế có nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, đáng chú ý là:
Một là, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, đơn vị và người đứng đầu chưa thực sự quan tâm đúng mức tới việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng, khuyến kích vai trò của nhân dân với phòng chống tham nhũng; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, Nhân dân, xã hội trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; việc thực thi pháp luật không nghiêm.
Hai là, một số cơ chế, chính sách, quy định của pháp luật còn kiếm khuyết; thiếu đi những khen thưởng và bảo vệ người tố cáo tham nhũng chưa đầy đủ, còn có khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện hoặc chưa đủ sức răn đe đối với hành vi tham nhũng.
Ba là, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, quản lý hoặc tiêu cực, tham nhũng khi có điều kiện.
Bốn là, trong một số vụ việc, vụ án chưa có sự phối hợp tốt giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền như cơ quan thanh tra, điều tra với các tổ chức và công dân dẫn đến việc xử lý một số vụ việc, vụ án thiếu kiên quyết, kéo dài, làm ảnh hưởng đến niềm tin trong Nhân dân.
4. Một số giải pháp đề cao vai trò của công dân trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Thứ nhất, cần có cơ chế bảo vệ người tố cáo. Mặc dù pháp luật hiện hành đã có những quy định để bảo vệ người tố cáo song chưa đủ. Trên thực tế, đã có một số trường hợp công dân tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng bị trả thù mà chưa được bảo vệ kịp thời. Có những trường hợp công dân biết được hành vi tham nhũng, người thực hiện hành vi tham nhũng, tài sản tham nhũng nhưng vì sợ bị trả thù nên họ không tự giác và hứng khởi trong việc cung cấp thông tin về tham nhũng cho các cơ quan chức năng.
Bên cạnh việc bảo vệ người tố cáo cũng cần phải bảo vệ cả người thân trong gia đình họ nhưng pháp luật chưa quy định đầy đủ. Trên thực tế, có những trường hợp sự trả thù không nhằm thẳng vào người tố cáo mà nhằm vào vợ (chồng), con, cháu của họ. Ngoài ra, sự trả thù đối với người tố cáo có khi không nhằm trực tiếp vào thân thể người tố cáo và nhân thân của họ mà vào tài sản thuộc quyền sở hữu của họ vào những quyền nhân thân, quyền tài sản, quyền tự do của họ… Từ đó cho thấy, để bảo vệ được người tố cáo là một việc làm không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên cứu rất kỹ và có biện pháp bảo vệ bằng nhiều cách như chương trình bảo vệ nhân chứng ở một số nước đã thực hiện, có như vậy mới bảo đảm để công dân dám mạnh dạn đứng ra tố cáo tham nhũng.
Thứ hai, cần có quy định xem xét, giải quyết các trường hợp tố cáo nặc danh, mạo danh. Pháp luật hiện hành quy định không xem xét, giải quyết các trường hợp này là còn nhiều bất cập. Trong điều kiện cơ chế về bảo vệ người tố cáo tham nhũng chưa đầy đủ nên nhiều trường hợp bản thân người tố cáo tham nhũng không dám lộ diện, do đó, thay vì họ đứng danh viết đơn tố cáo thì họ lại không công khai danh tính của mình hoặc mạo danh người khác.
Mặc dù việc quy định không xem xét, giải quyết đơn thư tố cáo mạo danh và nặc danh cũng xuất phát từ những cơ sở cả về mặt lý luận và thực tiễn nhất định nhằm giữ vững sự ổn định chính trị – xã hội. Nhưng nếu chỉ quy định đơn thuần là không xem xét, giải quyết đơn tố cáo nặc danh, mạo danh thì sẽ rất lãng phí một nguồn thông tin lớn về tố cáo tham nhũng, điều này sẽ hạn chế trong phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật nói chung và tham nhũng nói riêng. Do đó, cần có quy định cụ thể các thông tin về tham nhũng trong đơn thư tố cáo mạo danh, nặc danh cũng phải được xem là nguồn thông tin quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước có biện pháp kiểm tra, chấn chỉnh quản lý, đồng thời là nguồn thông tin quan trọng để các cơ quan chức năng có biện pháp quản lý, khai thác, sử dụng nguồn thông tin quan trọng này vào việc xây dựng kế hoạch thanh tra, điều tra để phát hiện và xử lý tham nhũng.
Thứ ba, cần quy định rõ ràng và đầy đủ hơn về trách nhiệm của cá nhân trong việc kê khai tài sản. Hiện nay đã có quy định về thủ tục phải kê khai minh bạch tài sản nhưng chưa có các quy định về trách nhiệm cá nhân khi kê khai không minh bạch.
Chú thích:
1, 3, 4. Viện Ngôn ngữ (2000). Từ điển tiếng Việt. H. NXB Đà Nẵng, tr. 910, 191, 815.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999). Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học. H. NXB Công an Nhân dân, tr. 109.
5. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. http://vi.wikipedia.org/wiki.
Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi, bổ sung 2007, 2012).
3. Đinh Văn Minh (2006). Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và những nội dung cơ bản của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Nguyễn Văn Kim (2003). Pháp luật chống tham nhũng của một số nước trên thế giới. H. NXB Văn hóa dân tộc.
5. Thanh tra Chính phủ (2021). Báo cáo kết quả đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh năm 2021.
6. Thanh tra Chính phủ (2022). Báo cáo kết quả đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh năm 2022.
7. Thanh tra Chính phủ (2022). Báo cáo tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022.