Panfongpheth Bounchanh
NCS Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển nông thôn là chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào, hợp với nguyện vọng của nhân dân các bộ tộc Lào. Những năm qua, cấp ủy, chính quyền các cấp và cả hệ thống chính trị của tỉnh Luông Pha Băng (CHDCND Lào) đã tích cực, chủ động, sáng tạo trong triển khai thực hiện. Bộ máy chỉ đạo thực hiện Chương trình được hình thành đồng bộ; nhiều cơ chế, chính sách được ban hành có tác dụng thiết thực và trở thành động lực thúc đẩy tiến độ triển khai phát triển nông thôn của tỉnh. Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ và đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, rất cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, quyết liệt hơn nữa của Tỉnh ủy để Chương trình phát triển nông thôn mới của tỉnh Luông Pha Băng thật sự phát triển bền vững.
Từ khóa: Vai trò lãnh đạo, Tỉnh ủy Luông Pha Băng, phát triển nông thôn mới.
1. Đặt vấn đề
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào, tỉnh Luông Pha Băng đã chú trọng đến phát triển kinh tế – xã hội nông thôn bằng nhiều chương trình, như: các chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở và nước sinh hoạt cho các hộ dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn; chương trình về phát triển kinh tế – xã hội các cụm bản đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi; Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; Chương trình kiên cố hoá kênh mương; chương trình tái định cư và gộp bản các bản nhỏ; đầu tư hạ tầng mở đường vào khu vực sản xuất, nâng cấp đường giao thông nông thôn… qua đó, hệ thống hạ tầng từng bước được đầu tư nâng cấp, đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, bộ mặt nông thôn có nhiều biến đổi tích cực.
2. Kết quả triển khai phát triển nông thôn mới
Qua việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án có thể thấy vai trò to lớn của Đảng bộ tỉnh Luông Pha Băng trong việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển nông thôn mới đúng hướng và đạt hiệu quả thiết thực, đã từng bước khơi dậy được sự hưởng ứng và đồng thuận cao của người dân nông thôn. Một số kết quả đạt được như sau:
Thứ nhất, trong quá trình triển khai thực hiện công tác lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh Luông Pha Băng đã gắn các chủ trương, đường lối của Đảng vào phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, đưa nội dung và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời, đã lồng ghép nhiều chương trình liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn với nhau. Theo đó, nhiều văn bản, Nghị quyết đã được ban hành nhằm thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nông thôn.
Đảng bộ tỉnh Luông Pha Băng đã lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung và ban hành mới các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo của tỉnh phù hợp với giai đoạn mới và điều kiện nguồn lực của tỉnh, theo hướng giảm dần chính sách cho không; thực hiện các chính sách hỗ trợ gián tiếp, hỗ trợ để tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thông qua hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng; hỗ trợ tín dụng ưu đãi; hỗ trợ phát triển các tổ, nhóm sản xuất (hợp tác xã); hỗ trợ phát triển rừng, và một số cây con có giá trị, có lợi thế trên địa bàn tỉnh; hỗ trợ nhân rộng các mô hình giảm nghèo hiệu quả.
Hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, đặc biệt hướng vào nhóm đối tượng người nghèo, người thuộc hộ cận nghèo. Triển khai đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ hộ nghèo, người nghèo, trợ giúp các đối tượng yếu thế, bảo đảm an sinh xã hội theo chỉ đạo của Chính phủ. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, cán bộ, đảng viên và nhân dân đã nhận thức rõ về vai trò, vị trí của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh.
Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, được toàn xã hội quan tâm, hưởng ứng, tích cực tham gia và đạt được kết quả quan trọng, như: Trong 6 tháng đầu năm 2024, kinh tế tăng trưởng ổn định GDP 3,6% kế hoạch là 5,5% giá trị tổng sản lượng sản xuất 10.000 tỷ kíp bằng 58,48% kế hoạch năm1. Cơ chế, chính sách, quy hoạch, đề án được ban hành đồng bộ kịp thời đã có tác động quan trọng thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn, đa dạng hóa các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn (trang trại, hợp tác xã, tổ hợp tác…), khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Đã hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa quy mô tương đối lớn, hình thức liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm đã được chú trọng thực hiện. Việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất được coi trọng đã nâng cao năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi, giảm chi phí sản xuất. Lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp “tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 47,38% GDP kế hoạch của cả năm 2024”2.
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp được tập trung chỉ đạo thực hiện, cơ cấu các sản phẩm trong nông nghiệp của tỉnh đã được định hình tương đối rõ nét; hạ tầng kỹ thuật phục vụ nông nghiệp từng bước được đầu tư xây dựng; quy mô sản xuất chuyển dịch hợp lý sang sản xuất hàng hóa. Trong đó, về trồng trọt diện tích lúa 1.304 ha, vượt 10,26% kế hoạch 6 tháng đầu năm, sản lượng lúa 7.665 tấn, kế hoạch là 9862 tấn, đạt 77,72% kế hoạch của cả năm. Trồng các loại rau, cây tinh bột, như: sắn, khoai lang, lạc 7.132,8 ha, sản lượng 49.347 tấn, bằng 16,87% kế hoạch 292.514,95 tấn; trồng cây ăn quả diện tích đạt 8.296 ha. Xuất khẩu nông – lâm sản các loại đạt trị giá 22,94 triệu USD (tương đương 504,67 tỷ kíp). Trong đó, giá trị nông sản là 341,37 tỷ kíp, vượt kế hoạch 84,18% (185,34 tỷ kíp); lâm sản là 20,61 tỷ kíp, bằng 42,11%, kế hoạch là 48,94 tỷ kíp3.
Về chăn nuôi và thủy sản tổng số vật nuôi gia súc là 1,12 triệu con, gia cầm có hơn 1 triệu con, bằng 44,9% kế hoạch năm4. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, đời sống được xây dựng đồng bộ, tạo diện mạo mới cho khu vực nông thôn, góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn; hệ thống chính trị được củng cố, tăng cường; quốc phòng được giữ vững, an ninh trật tự xã hội được bảo đảm. Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, UBND, HĐND tỉnh và các cấp, kinh tế địa phương đã có những chuyển biến tích cực và từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp dần giảm sang công nghiệp đóng góp tỷ trọng kinh tế cao hơn. Trong 6 tháng đầu năm 2024 khu vực công nghiệp và thủ công tăng 3,5% GDP, chiếm 24,49% GDP5.
Trong lĩnh vực du lịch dịch vụ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã chỉ đạo tập trung quảng bá, tuyên truyền về du lịch địa phương, tổ chức lễ hội du lịch trong dịp tết lào, trong 6 tháng đầu năm 2024 đã đón 911.618 lượt khách, tăng 364.651 người, bằng 66,66% kế hoạch năm; trong đó, khách trong nước 585.780 lượt người, tăng 128.046 lượt người, bằng 27,97%. Chi phí trung bình của khách du lịch 103USD/người/ngày6. Đồng thời, tỉnh cũng đang tập trung phát huy nguồn lực địa phương và ưu thế của thiên nhiên ban tặng cho tỉnh Luông Pha Băng về du lịch dịch vụ.
Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chính quyền tỉnh Luông Pha Băng đã thành lập bộ máy chỉ đạo, quản lý chương trình phát triển nông thôn từ tỉnh tới cơ sở; huy động cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia vào phong trào “Luông Pha Băng chung sức xây dựng nông thôn, nông nghiệp, nông dân”. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của HĐND, UBND tỉnh, thực hiện chỉ đạo đồng bộ trên tất cả các mặt nên tỉnh Luông Pha Băng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, GDP bình quân đầu người năm 2022 là 1.725 USD7.
Có được những kết quả nêu trên xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển nông thôn là Chương trình kinh tế – xã hội lớn được Đảng, Nhà nước quan tâm chỉ đạo; có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; được tổ chức bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương.
Thứ hai, Trước khi có chủ trương về phát triển nông thôn mới, tỉnh Luông Pha Băng đã kịp thời nắm bắt và ban hành các văn bản chỉ đạo để thực hiện. Cụ thể là Nghị quyết số 137/NQ-BTV ngày 25/10/2020 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Luông Pha Băng về xây dựng bản và cụm bản phát triển liên kết với công tác xóa đói, giảm nghèo và phát triển bền vững ở nông thôn. HĐND tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn. UBND tỉnh đã cụ thể hóa việc thực hiện bằng các chương trình, kế hoạch, đề án, quyết định để thực hiện nghị quyết.
Thứ ba, trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình phát triển nông thôn luôn có sự quan tâm, chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Luông Pha Băng; sự phối hợp của các cấp, các ngành, các địa phương và đồng thuận, hưởng ứng tích cực của nhân dân trên địa bàn toàn tỉnh.
3. Một số hạn chế, bất cập
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phát triển nông thôn và quản lý nhà nước về phát triển nông thôn ở tỉnh Luông Pha Băng trong thời gian qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:
Một là, nhận thức của một số cấp ủy về trách nhiệm và tính chủ động trong xây dựng nông thôn, nông nghiệp, nông dân nhìn chung chưa cao, còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của ngân sách nhà nước. Luông Pha Băng hiện có trên 87% dân số sống ở nông thôn và kinh tế chủ yếu dựa vào nông – lâm nghiệp. Chính vì vậy, tập trung phát triển kinh tế nông thôn là nhân tố quan trọng để phát triển nền kinh tế của tỉnh, nông nghiệp nông thôn là đầu vào của quá trình sản xuất công nghiệp chế biến, cũng là thị trường đầu ra của công nghiệp sau chế biến, tuy nhiên, nhận thức về chủ trương phát triển nông thôn trong thời kỳ đổi mới còn thiếu toàn diện, sâu sắc. Sự hạn chế đó dẫn đến một số mặt, lĩnh vực thực hiện chưa hiệu quả, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới phương thức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn còn chậm, chưa thực sự phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương.
Sự liên kết trong sản xuất, kinh doanh còn hạn chế, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán; công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề nông thôn phát triển chậm; thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn còn hạn chế, chưa đạt hiệu quả. Trong quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch các địa phương tập trung nhiều cho việc đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật; việc quan tâm đến các nội dung về phát triển sản xuất nâng cao thu nhập, phát triển văn hóa, cải thiện môi trường… còn hạn chế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn chậm. Chưa hình thành các vùng kinh tế trọng điểm để phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Sản xuất nông, lâm nghiệp ở nhiều nơi còn manh mún, phân tán, chưa tạo được nhiều sản phẩm hàng hoá nông nghiệp có giá trị kinh tế cao; phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chuyên canh còn chậm, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa thấp.
Hai là, một số nơi chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động tại cơ sở. Trên thực tế, nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động còn nặng về hô khẩu hiệu, chưa đi vào thực chất, mới dừng lại ở việc thông tin về chủ trương, đường lối, chính sách, chưa làm cho người dân thấy được vai trò, trách nhiệm của mình trong phát triển nông nghiệp, ngành nghề tại địa phương, vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Công tác tuyên truyền về gương tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến trong xây dựng nông thôn, nông nghiệp nông thôn của các cơ sở còn ít, người dân chưa thấy được những mô hình hay, cách làm hiệu quả trong xây dựng kinh tế nông thôn ở các huyện.
Ba là, công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện xây dựng và phát triển nông thôn của một số cấp ủy, chính quyền chưa thường xuyên, chặt chẽ; chất lượng một số cuộc kiểm tra, giám sát còn mang tính hình thức.
Bốn là, phong trào xây dựng kinh tế nông thôn phát triển chưa đồng đều, có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao. Một bộ phận nông dân nhận thức, trình độ, năng lực còn hạn chế, đời sống khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo trong nông dân còn cao, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chủ yếu là do nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, đúng mức; nguồn lực dành cho hoạt động hỗ trợ nông dân còn hạn chế. Một số cơ quan, ban ngành chưa chủ động, kịp thời trong tham mưu, chưa quyết liệt trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức còn hình thức, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Một bộ phận cán bộ năng lực hạn chế, chậm đổi mới tư duy, thiếu tâm huyết, chưa sâu sát cơ sở, chưa đủ uy tín, dẫn dắt phong trào nông dân, chưa đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
4. Một số giải pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Luông Pha Băng trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực bộ máy quản lý nhà nước; đổi mới phương thức quản lý, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.
Cần có sự lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy đảng, chính quyền, huy động được sự tham gia của cả hệ thống chính trị và người dân, có cách làm sáng tạo. Phải xây dựng được kế hoạch chi tiết, có quy chế làm việc, có sự phân công rõ trách nhiệm đối với từng cấp, ngành và người thực hiện. Phải xác định rõ việc nào dân làm, việc nào Nhà nước hỗ trợ, việc nào Nhà nước làm. Công tác phối hợp, điều hành sát với thực tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức, triển khai thực hiện Chương trình. Tổ chức Đảng thực sự là nòng cốt lãnh đạo phát triển nông thôn. Các cấp, các ngành xây dựng Chương trình, đề án, dự án, kế hoạch triển khai thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ chặt chẽ, hiệu quả cho cơ sở thực hiện việc phát triển kinh tế.
Mặt trận Tổ quốc tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng phát triển kinh tế nông thôn cũng như các khu vực phụ cận. Mỗi tổ chức đoàn thể đảm nhận một số tiêu chí hoặc chỉ tiêu phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình để vận động hội viên thực hiện có hiệu quả cụ thể. Ban Chỉ đạo các cấp cần tăng cường sự phối hợp, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời đề xuất tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, phát sinh để UBND tỉnh chỉ đạo.
Các sở, ban, ngành phụ trách bám sát kế hoạch hằng năm để kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị cơ sở thực hiện đúng các quy định và đạt chỉ tiêu. Đẩy mạnh triển khai các giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, tính chuyên nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức để tham mưu thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước về chương trình xây dựng nông thôn mới. Rà soát chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở, lập kế hoạch và cử đi đào tạo, bồi dưỡng nhằm đáp ứng với yêu cầu, chức trách, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thường xuyên tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu rõ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng mang ý nghĩa chính trị, kinh tế của Nghị quyết và những chương trình phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn phát triển mới. Đổi mới hình thức tuyên truyền, tăng cường phổ biến những cách làm hay, mô hình hiệu quả trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Tuyên truyền để người dân xác định được trách nhiệm “chủ thể” của mình. Công tác tuyên truyền phải thật sự đi vào chiều sâu, cụ thể, dễ hiểu.
Ba là, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng Nghị quyết Nghị quyết Đại hội lần thứ 8 khoá XI của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của chủ trương, đường lối thực hiện phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, tái cơ cấu nông nghiệp đến các cấp, ngành, địa phương và người dân. Cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và nhân dân nông thôn. Thường xuyên cập nhật, phổ biến các mô hình, các điển hình tiên tiến, sáng kiến và kinh nghiệm hay về phát triển nông thôn để nhân ra diện rộng.
Bốn là, tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ các cấp trên địa bàn tỉnh, kết hợp phổ biến các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ công chức, viên chức và người dân. Nội dung và hình thức tuyên truyền luôn được đổi mới, phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, giúp cán bộ, nhân dân dễ tiếp thu, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ thực hiện. Việc áp dụng công tác tuyên truyền bằng các phương tiện thông tin hiện đại, trang thông tin điện tử, tuyên truyền thông qua mạng xã hội… góp phần truyền tải thông tin đến cán bộ,nhân dân nhanh hơn, kịp thời, đầy đủ và chính xác hơn. Cổ vũ, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường vươn lên của người dân; đồng thời, nâng cao nhận thức và phòng, chống các âm mưu diễn biến hòa bình, âm mưu chống phá Nhà nước của các thế lực thù địch, đặc biệt là ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh, vùng dân tộc thiểu số.
Năm là, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý ngành từ Trung ương đến địa phương. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc các cấp ở trung ương và các địa phương, ra sức tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ về tái cơ cấu kinh tế. Thực hiện nghiêm Luật phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; đồng thời, tăng cường kỷ luật, kỷ cương về tài chính, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực.
5. Kết luận
Chương trình xây dựng và phát triển nông thôn mới là quá trình liên tục, lâu dài, Ban Thường vụ Tỉnh ủy chỉ đạo các cấp ủy đảng, các địa phương trên địa bàn toàn tỉnh cần tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm giữ vững và nâng cao chất lượng, hiệu quả các tiêu chí, với đích đến là hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 6 tháng cuối năm 2024: GDP phải đạt 5,5% trở lên, tổng sản phẩm trong nước đạt 17.255,14 tỷ kíp, thu nhập bình quân đầu người 35,89 triệu kíp/người/năm, trong đó khu vực nông nghiệp tăng 4,75%, khu vực công nghiệp – thủ công tăng 6,49%, khu vực dịch vụ tăng 5,48%, phấn đấu xuất khẩu hàng hóa đạt 652,51 tỷ kíp; nhập khẩu hàng hóa không vượt quá 794,46 tỷ kíp, làm cho giá trị lưu lượng bán buôn bán lẻ tăng từ 11% trở lên, tiến tới dần cân bằng cán cân thanh toán trong xuất khẩu – nhập khẩu hàng hóa, phấn đấu mở rộng điện tăng thêm 19 bản, phục vụ cho 1.559 hộ8.
Chú thích:
1. Tỉnh ủy Luông Pha Băng (2024). Nghị quyết hội nghị đảng bộ tỉnh Luông Pha Băng lần thứ 11 khóa VIII, ngày 11- 12 tháng 7/2024.
2. UBND tỉnh Luông Pha Băng (2024). Tổng kết công tác năm 2023 về việc tổ chức thực hiện công tác cơ sở kết hợp với việc phát triển nông thôn, xóa đói, giảm nghèo và công tác 3 xây.
3. UBND tỉnh Luông Pha Băng (2024). Tóm tắt thực hiện công việc toàn diện 6 tháng đầu năm và hương hướng công tác trọng tâm 6 tháng cuối năm 2024 của tỉnh Luông Pha Băng.
4. Sở Nông – Lâm nghiệp tỉnh Luông Pha Băng (2024). Báo cáo Tổng kết công tác năm 2003.
5. UBND tỉnh Luông Pha Băng (2024). Sơ kết 6 tháng đầu năm 2024 về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Luông Pha Băng.
6. Sở Văn hóa và Du lịch tỉnh Luông Pha Băng (2023). Báo cáo Tổng kết năm 2023.
7, 8. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Luông Pha Băng (2024). Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2024.