Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục đại học ở Việt Nam

ThS. Nhữ Thị Hiền
Trường Đại học Tương Đàm
(School of Public Administration, Xiangtan University)

(Quanlynhanuoc.vn) – Mục đích chính của nghiên cứu này là xem xét một cách có hệ thống cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đào tạo trình độ đại học và sau đại học ở Việt Nam. Nghiên cứu tiến hành đánh giá và phân tích thực trạng quản lý nhà nước về dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đào tạo trình độ đại học và sau đại học ở Việt Nam từ quá trình hình thành, thẩm định, phê duyệt, triển khai thực hiện dự án, khai thác dự án, đồng thời xác định những nguyên nhân, hạn chế còn tồn tại và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước cho đào tạo trình độ đại học và sau đại học đáp ứng những yêu cầu và nhiệm vụ mới trong công cuộc phát triển sự nghiệp giáo dục của đất nước.

Từ khóa: Dự án đầu tư; ngân sách nhà nước; giáo dục đại học; quản lý nhà nước; Việt Nam

1. Mở đầu

Nhận thức được tầm quan trọng của ngành Giáo dục và Đào tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội luôn khẳng định rõ: “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”, coi sự nghiệp phát triển giáo dục là yếu tố cơ bản – là khâu đột phá. Chính vì vậy, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có chủ trương và dành nhiều khoản đầu tư cho giáo dục – đào tạo. Trong đó, Nhà nước đã có chính sách đầu tư cho giáo dục – đào tạo phù hợp theo từng thời kỳ, như: (1) Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; (2) Yêu cầu phát triển bền vững cho giáo dục nói chung, đào tạo trình độ đại học và sau đại học nói riêng của đất nước; (3) Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở bậc đại học và sau đại học; (4) Yêu cầu đóng góp cho quản lý nhà nước (QLNN) lĩnh vực đầu tư vào giáo dục đại học và sau đại học bằng ngân sách nhà nước thông qua các dự án đầu tư để đạt được mục tiêu đạt ra, tránh lãng phí dàn trải; (5) Xuất phát từ định hướng của Đảng và Nhà nước về giáo dục – đào tạo.

2. Cơ sở lý luận

2.1. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục và giáo dục đại học

Giáo dục đại học và ngân sách nhà nước dành cho giáo dục đại học (bao gồm các hoạt động đào tạo từ cao đẳng trở lên đến đại học (trong đó có cả những hoạt động giáo dục đại học và sau đại học). Những khoản chi ngân sách nhà nước được thực hiện dưới các hình thức chương trình, dự án: trợ cấp hay đầu tư cho các cơ sở giáo dục đại học; trợ cấp cho sinh viên (xét và cấp); tín dụng cho vay lãi suất thấp. Trong từng giai đoạn cụ thể, chi tiêu công dành cho giáo dục tính theo tỷ lệ trong chi tiêu công hay tính theo tỷ lệ với GDP sẽ đều có xu hướng gia tăng.

Trong điều kiện của Việt Nam, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo được đánh giá là một trong những quốc gia có tỷ lệ ngân sách nhà nước  dành chi cho giáo dục và đào tạo lớn nhất thế giới. Trong vòng 15 năm, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước  cho GD&ĐT tăng dần từ 12% lên đến xấp xỉ 20% – con số mà nhiều nước chưa đạt đến.

 Chi ngân sách nhà nước phát triển giáo dục giai đoạn 2018 – 2022 (theo dự toán)

NămChi đầu tư và phát triểnChi thường xuyênTổng chi ngân sách
Tổng sốGiáo dụcTỷ lệ (%)Tổng sốGiáo dụcTỷ lệ (%)Tổng số (1)Giáo dục (2)Tỷ lệ (%)
201899,76016,50013.53218,85064,06026.88498,98076,56017.78
2019118,60015,37913.75289,60068,53026591,40091,71217.73
2020145,50026,27518.18365,56087,70026.24682.200106,97619.13
2021167,00028,91117.39462,100150,13025.91825,600165,04119.51
2022190,00040,18417.76662,000165,92026.08903,100176,09519.69
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Bộ Tài chính, 2023.

Theo đó: (1) Tổng số chi ngân sách chỉ tính riêng tổng chi cân đối ngân sách nhà nước. Không tính những khoản chi từ các khoản thu quản lý qua NSNN; khoản chi nguồn vay nước ngoài cho vay lại; (2) Phần chi cho giáo dục- đào tạo và dạy nghề theo dòng NSNN. Những khoản chi khác có liên quan đến giáo dục – đào tạo như chi nghiên cứu khoa học; chi cải cách tiền lương; chi bổ sung và dự phòng không tính đến.

Tính kinh tế chính trị của đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học được đề cập từ lý thuyết chính trị kinh tế học về đầu tư của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục đại học chỉ ra rằng, tất cả các nước đã và đang sử dụng ngân sách nhà nước để đầu tư vào giáo dục đại học dưới nhiều hình thức. Mỗi một quốc gia đều có những cách lựa chọn khác nhau và đồng thời hiện nay đầu tư cho giáo dục đại học bằng ngân sách nhà nước trở thành vấn đề tranh luận của quá trình phân bổ ngân sách ở nhiều nước. Đồng thời, cũng do ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực cung cấp dịch vụ nói chung và giáo dục đại học nói riêng có rất nhiều vấn đề mang tính lý luận cũng như thực tiễn đòi hỏi giải quyết.

Hiện nay, các hình thức đầu tư cho giáo dục đại học từ nguồn ngân sách nhà nước được triển khai theo chi thường xuyên và chi xây dựng cơ bản (trong đó: chỉ thường xuyên là những chi tiêu thường xuyên hằng ngày, hằng năm của các cơ sở đào tạo nhằm duy trì dịch vụ giáo dục và chi xây dựng cơ bản là những khoản chi cho những tài sản có giá trị lớn, thời gian dài); về một số hình thức đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học (gồm: (1) Mô hình phân bố, quản lý chi tiêu công nói chung và cho giáo dục đại học nói riêng dựa vào kết quả; (2) Phân bổ và quản lý ngân sách công dựa vào hạng mục chi tiêu; (3) Mô hình hỗn hợp kết hợp).

Theo đặc điểm trên cho thấy, giáo dục đại học là một trong những cấp học đóng vai trò quan trong trong phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Giáo dục đại học phát triển cả ở các quốc gia phát triển lẫn đang phát triển với tốc độc cao, do đó, nhu cầu của công dân học đại học cũng có xu hướng gia tăng nhanh.

2.2. Quản lý nhà nước các dự án đầu tư

Đầu tư là một khái niệm được tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành một hay nhiều hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai. 

Dự án đầu tư được đề cập trong Nghị định số 177/1994/NĐ-CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ làdự án thích hợp nhất cho nhiều loại dự án và là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Các nhà đầu tư đều có thể tiến hành đầu tư thông qua các hình thức dự án và quản lý bằng dự án, đầu tư theo dự án.

Do đó, quản lý các dự án đầu tư của các cơ quan QLNN và các cơ quan của các nước đóng vai trò quan trọng trong việc thẩm định, phê duyệt các dự án nhằm bảo đảm cho các dự án đó đúng với chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước đã đề ra.

2.3. Quản lý nhà nước các dự án đầu tư từ ngân sách cho giáo dục đại học

QLNN các hoạt động đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các thể chế giáo dục được thể hiện từ việc:

(1) QLNN các dự án đầu tư công cho hạ tầng các thể chế giáo dục đại học (gồm quy trình quản lý dự án, chương trình đầu tư công QLNN các dự án đầu tư công cho xây dựng và phát triển hạ tầng của các thể chế giáo dục đại học – những nguyên tắc chung quản lý các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học và sau đại học).

QLNN các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, biên soạn giáo trình (các dự án đầu tư công cho các chương trình nghiên cứu cũng như phát triển các chương trình giảng dạy biên soạn tài liệu ít được quan tâm tách thành một lĩnh vực. Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới đều không có thống kê riêng về nội dung này1, cũng có thể dành hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực hệ thống giáo dục đại học. Lý thuyết và thực tiễn chỉ ra rằng, cần phải có những dự án đầu tư nhằm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực các cơ sở giáo dục đại học nhằm cung cấp cho giảng viên, các nhà quản lý các cơ sở giáo dục đại học những kiến thức, những bí quyết giảng dạy và quản lý trong môi trường thay đổi. Do đó, QLNN các chương trình, dự án đầu tư công cho phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học thường mang tính tập trung, hơn là đưa về cho các cơ sở giáo dục đại học và quản lý theo hệ thống các chuẩn mực quy định. Và việc xét chọn để được thực hiện mang tính cạnh tranh.

(2) QLNN các dự án đầu tư từ ngân sách hỗ trợ sinh viên, trong đó chương trình hay các dự án trợ cấp không có định nghĩa thống nhất. Tuy nhiên, đó là các chương trình, dự án tài trợ tài chính cho sinh viên nhằm hỗ trợ trực tiếp sinh viên trong quá trình học tập. Các chương trình, dự án đầu tư công này còn dựa vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi sinh viên, do đó, để bảo đảm cho họ có thể tiếp cận bình đẳng với giáo dục đại học cần hỗ trợ họ về tài chính thông qua học bổng hoặc trợ cấp. Chính vì vậy, cần QLNN các chương trình, dự án đầu tư công hỗ trợ sinh viên thông qua hình thức vay tín dụng (đây là một hình thức tín dụng cho sinh viên nhưng có điều kiện ưu đãi của Nhà nước và những khoản ưu đãi đó đều được Nhà nước chi trả bằng ngân sách, việc ưu đãi vay tín dụng cho sinh viên có thể dưới nhiều hình thức).

3. Thực trạng quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phát triển giáo dục đại học tại Việt Nam

Giáo dục đại học ở Việt Nam là đang có những sự cải cách sâu sắc. Nếu như trước đây, giáo dục đại học Việt Nam chỉ là lĩnh vực hoàn toàn do Nhà nước bao cấp, thực hiện với hệ thống các trường của Nhà nước (công lập) thì cùng với sự cải cách thể chế kinh tế, sự chấp nhận các thành phần kinh tế khác nhau cùng tồn tại, đặc biệt là trên lĩnh vực dịch vụ như giáo dục. Bên cạnh hệ thống các cơ sở giáo dục đại học công lập, hệ thống các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập đang phát triển với tốc độ khá nhanh trong khu vực Đông Nam Á.

Một là, cơ sở pháp lý và chính sách: hệ thống pháp luật và chính sách về quản lý các dự án đầu tư xây dựng trong lĩnh vực giáo dục đại học đã được hoàn thiện, bao gồm: Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Giáo dục đại học và các văn bản hướng dẫn thi hành. Ngân sách nhà nước dành cho giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng được nhà nước dành một sự ưu tiên lớn. Từ năm 2021 – 2022, tỷ lệ ngân sách nhà nước dành cho sự nghiệp giáo dục đã tiến đến gần con số 20% tổng chi ngân sách nhà nước2. Đây là con số đang phấn đấu của nhiều nước trên thế giới và do đó, Việt Nam được coi như dành nhiều ưu tiên cho đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục. Trong giai đoạn 2021 – 2030, với mục tiêu phấn đấu thuộc nhóm 4 nước có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất khu vực Đông Nam Á, nhóm 10 nước có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất trong hệ thống giáo dục ở châu Á vào năm 20303

Tuy nhiên, do chiến lược định hướng phát triển giáo dục theo hướng xã hội hóa, với sự tham gia ngày càng gia tăng của hệ thống các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập thì việc phân bổ lại cho sinh viên, người trực tiếp nhận được lợi ích từ dịch vụ giáo dục đại học cung cấp sẽ có những thay đổi. Hướng phấn đấu có trên 40% sinh viên sẽ theo học các cơ sở ngoài công lập thể hiện định hướng chung của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước tập trung ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của các trường đại học mang ý nghĩa quốc gia. Đó là các trường đại học quốc gia, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, thành phố Vinh (Nghệ An), thành phố Huế(Thừa Thiên Huế) và các trường đại học quốc lập. Mục tiêu để đến năm 2030, Việt Nam phải có những trường đại học được xếp trong những trường thuộc top 200 của khu vực và thế giới. Đầu tư phát triển hạ tầng sẽ tập trung vào các trường công lập trọng điểm, không đầu tư dàn trải.

Nhà nước thực hiện chính sách cắt giảm trợ cấp ngân sách nhà nước cho chi thường xuyên của các trường công lập trên cơ sở thực hiện một cách triệt để, nhất quán chính sách tự chủ tự chịu trách nhiệm. Những mô hình điển hình của thí điểm sẽ phải trở thành mô hình chung để thực hiện nhiệm vụ đào tạo giáo dục đại học theo đơn đặt hàng của Nhà nước và trên cơ sở cạnh tranh giữa các trường với nhau thông qua tiêu chí chất lượng. Không phân biệt trường công lập hay ngoài công lập nếu đảm nhận được những nhiệm vụ Nhà nước giao sẽ nhận được đơn đặt hàng của Nhà nước. Do vậy, việc QLNN đối với các dự án này cần phải dựa trên nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh giữa các trường. Kết quả sản phẩm sẽ là tiêu chí để chi trả.

Chính sách học phí sẽ được xây dựng và quản lý dựa trên nguyên tắc cơ sở giáo dục đại học là cơ sở giáo dục phi lợi nhuận. Tất cả các trường công lập và ngoài công lập cũng sẽ có mức học phí được một hội đồng gồm nhiều đại diện của trường công lập và hiệp hội các trường ngoài công lập cùng xây dựng và công bố. Học phí có thể điều chỉnh hằng năm dựa vào sự thay đổi của lạm phát, giá trị lương tối thiểu được công bố.

Các cơ sở giáo dục đại học hoàn toàn bình đẳng với nhau trong tiếp cận đến các dự án đầu tư bằng ngân sách nhà nước cho hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ. Ngân sách nhà nước dành cho hoạt động khoa học – công nghệ dưới hình thức các đề tài dù Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý hay Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý đều dựa trên nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh, công khai. Bên cạnh đó, Nhà nước tiếp tục vận động ODA; vận động các tổ chức phi chính phủ; các tổ chức tài chính cũng như Chính phủ các nước hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực đại học của Việt Nam thông qua các hình thức học bổng. Phát triển nguồn nhân lực cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam cần thực hiện thông qua dự án đầu tư bằng ngân sách nhà nước cho đào tạo sau đại học. 

Các quy định pháp lý này đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cơ bản để quản lý các dự án này. Tuy nhiên, vẫn còn một số chính sách, quy định chưa phù hợp, chưa đáp ứng kịp các thay đổi và yêu cầu mới; quy định về lập, thẩm định, phê duyệt dự án còn rườm rà; chính sách đầu tư cho các dự án còn hạn chế; quy định về giám sát, đánh giá chưa đủ mạnh. Ví dụ: vốn 150 tỷ năm 2023 của Bộ Giáo dục và Đào tạo dự kiến đầu tư cho hệ thống hạ tầng kỹ thuật, như: phòng học, hội trường cơ sở thí nghiệm của các trường, khoa sư phạm nằm trong các trường4. Trong khi đó, nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho các trường nằm bên ngoài Bộ Giáo dục và Đào tạo thuộc ngân sách phân bổ của các bộ, ngành và địa phương. Vốn này rất lớn, nhưng thiếu số liệu thống kê để có thể xác định số lượng dành cho các hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản các trường đại học.

Hai là, tổ chức và phân cấp quản lý: trách nhiệm QLNN được phân định rõ ràng giữa các cơ quan trung ương (Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và chính quyền địa phương. Các cơ quan này đều có vai trò và nhiệm vụ quản lý riêng biệt. Các dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc hạ tầng cơ sở thường có những văn bản pháp lý của Nhà nước hướng dẫn. Ví dụ: Nghị định số 12/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định cách thức QLNN các dự án đầu tư xây dựng công trình. Mọi dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình cho giáo dục đại học cũng tuân thủ theo quy định chung này.

Tuy nhiên, vẫn còn một số chồng chéo, chưa thực sự rõ ràng, nhất là giữa các bộ, ngành và địa phương. Chẳng hạn, trách nhiệm phê duyệt dự án, giám sát, đánh giá dự án chưa được phân định rõ ràng, các dự án đầu tư xây dựng cơ của thuộc nguồn ngân sách nhà nước phân bổ cho Bộ Giáo dục và Đào tạo được chia thành 3 nhóm: A, B và C theo các tiêu chí được quy định trong văn bản pháp luật về các dự án đầu tư xây dựng công trình. Tuy nhiên, căn cứ vào mức độ đầu tư để thực hiện quy trình QLNN các dự án từ khâu thẩm định, phê duyệt, đến quyết toán. Đối với các dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo, không có văn bản hướng dẫn riêng. Do đó, các nội dung liên quan đến QLNN các dự án thuộc Bộ quản lý đều theo quy định của văn bản pháp luật chung.

Ba là, quy trình và thủ tục: quy trình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục đại học tương đối đầy đủ và rõ ràng, bao gồm các bước từ lập dự án, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công, nghiệm thu và đưa vào sử dụng, theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tuy nhiên, số vốn vận động và ký kết lại được rải ra nhiều bộ, ngành, nhiều trường. Trong đó có Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, có một số dự án sử dụng vốn ODA.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bước, thủ tục rườm rà, gây chậm trễ và tăng chi phí. Ví dụ, quy trình lập, thẩm định, phê duyệt dự án còn kéo dài; thủ tục đấu thầu, mua sắm vật tư thiết bị còn phức tạp, QLNN các dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc hệ thống hạ tầng của giáo dục đại học cũng chịu sự kiểm soát giống như mọi dự án đầu tư xây dựng công trình khác; các dự án đầu tư xây dựng công trình thuộc hạ tầng cơ sở giáo dục đại học có những nét đặc trưng riêng nhưng lại chưa có văn bản riêng để quản lý các dự án đầu tư xây dựng công trình mang tính đặc trưng cho giáo dục đại học nói riêng. Chính vì vậy, các thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt, quyết toán các dự án đều theo cách tiếp cận chung, khá phức tạp.

Bốn là, năng lực quản lý: đối với ngành Giáo dục đại học thì nguồn nhân lực chất lượng cao rất quan trọng; nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý được đầu tư đào tạo, đặc biệt ở cấp trung ương. Theo Đề án 165 (do Ban Tổ chức Trung ương chủ trì theo Thông báo số 165-TB/TW ngày 27/6/2008 của Bộ Chính trị) về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước, đã cử 6.157 cán bộ đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài (học thạc sĩ, tiến sĩ, ngoại ngữ, ngắn hạn); 3.268 cán bộ đi bồi dưỡng ở trong nước (thạc sĩ liên kết trong nước và học ngoại ngữ trong nước) với tổng kinh phí 698 tỷ đồng Việt Nam5. Đào tạo khoảng 12.000 tiến sĩ ở nước ngoài tại các trường đại học có uy tín trên thế giới, đào tạo khoảng 6.000 tiến sĩ theo hình thức phối hợp, liên kết đào tạo giữa các trường đại học Việt Nam và trường đại học nước ngoài, đào tạo khoảng 10.000 tiến sĩ ở trong nước6. Tuy nhiên, năng lực quản lý ở cấp cơ sở, địa phương vẫn còn hạn chế, vẫn thiếu hụt về số lượng, nhất là cán bộ có chuyên môn cao về quản lý dự án, kỹ thuật xây dựng, đặc biệt ở các địa phương. 

Năm là, hoạt động giám sát, đánh giá: thực tế những năm qua, công tác giám sát, đánh giá dự án đào tạo đại học đã được thực hiện định kỳ, các loại dự án đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước đều được thực hiện hoạt động thanh tra kiểm tra và giám sát theo đúng pháp luật nhà nước quy định. Tuy nhiên, do đầu tư bằng nhiều nguồn vốn và bởi các chủ đầu tư khác nhau nên hoạt động thanh tra, kiểm tra giám sát chưa thực hiện thống nhất. Điều này không chỉ xảy ra ở các dự án đầu tư xây dựng cơ bản như xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà cửa, phòng học mà xảy ra ở các dự án đầu tư khác như dự án đầu tư cho các chương trình đào tạo ở nước ngoài, như: Đề án 322, 356, 911 và Đề án 165… Vẫn còn nhiều hạn chế như thiếu sự tham gia của các bên liên quan, thiếu minh bạch thông tin, kết quả giám sát, đánh giá chưa được sử dụng hiệu quả để hoàn thiện quản lý. Những vụ việc được phát hiện chủ yếu do cơ quan thông tin đại chúng phát hiện từ các nguồn tin của Nhân dân và cơ quan điều tra vào cuộc, các cơ quan chức năng QLNN như kế hoạch đầu tư, tài chính, giáo dục – đào tạo, xây dựng, thanh tra, kiểm toán chưa thực hiện chức năng này một cách thường xuyên liên tục, do vậy, chưa chấn chỉnh kịp thời đã gây thất thoát lãng phí ngân sách nhà nước, hiệu quả dự án chưa cao.

Nhìn chung, QLNN đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phát triển giáo dục đại học tại Việt Nam thời gian qua đã có những tiến bộ, nhưng vẫn còn nhiều điểm cần được cải thiện, như: hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao năng lực quản lý, tăng cường giám sát, đánh giá, để nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục đại học trong thời kỳ mới.

4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phát triển giáo dục đại học tại Việt Nam

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý và chính sách, trong đó cần rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy định liên quan đến quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục đại học. Xây dựng và ban hành các chính sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực giáo dục đại học.

Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đặc biệt là tăng cường năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục đại học. Việc chú trọng xây dựng đội ngũ này cần bảo đảm về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới. Đồng thời chú trọng xây dựng và hoàn thiện hệ thống giám sát, theo dõi, đánh giá chất lượng, hiệu quả các dự án đầu tư.

Thứ ba, thúc đẩy đa dạng hóa nguồn lực đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào giáo dục đại học; tiếp tục đẩy mạnh huy động các nguồn vốn xã hội hóa, như vốn từ doanh nghiệp, cựu sinh viên, tổ chức quốc tế, đồng thời khuyến khích thành lập các trường tư thục chất lượng cao.

Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tập trung rà soát cơ cấu lại chi ngân sách nhà nước theo hướng hiệu quả, bố trí hợp lý cho chi đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học; tăng cường xã hội hóa giáo dục, nâng cao hiệu quả, đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho phát triển của ngành Giáo dục.

Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế, tích cực tham gia vào các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về đầu tư phát triển giáo dục đại học. Đặc biệt, cần học tập và áp dụng các mô hình, kinh nghiệm quản lý đầu tư hiệu quả và phù hợp từ các nước tiên tiến. Phân tích cách sử dụng ngân sách nhà nước, ngân sách nhà nước dành cho giáo dục đại học có thể hình thành thông qua quỹ cạnh tranh. Kế hoạch tài trợ cạnh tranh đã được một vài nước nghĩ đến và áp dụng (Indonesia, Mongolia). Quỹ này sẽ tạo ra cơ hội cạnh tranh cho các dự án đầu tư bằng ngân sách nhà nước với những tiêu chí được sử dụng để đánh giá lựa chọn. 

Qua nghiên cứu của Lorenz Lassnigg đã chỉ ra một cách tiếp cận về hoạt động đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học. Những dự án như chia sẻ chi phí trong đào tạo giáo dục đại học không thực sự quan tâm ở Australia. Trong năm 2018, sinh viên chỉ chia sẻ khoảng 8,3% chi phí, trong khi đó trung bình của OECD là 34%; ở Nhật Bản, Hàn Quốc tương ứng là 80,77 và 67%. Australia áp dụng cơ chế phân chia ngân sách cho hệ thống giáo dục đại học 80/20 (80% ngân sách được phân bổ cho toàn bộ hoạt động đã được ký kết, thỏa thuận (peformance agreement) còn lại theo một hệ thống các tiêu chí khác)7. Như vậy, các dự án hay chương trình cho giáo dục đại học nằm ngay trong từng trường.

Thứ năm, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các trường đại học, nhất là về năng lực lập kế hoạch, quản lý, giám sát các dự án đầu tư trong các trường. Bên cạnh đó, tăng cường quyền tự chủ cho trường đại học để tạo động lực và cơ chế cho sự vận hành được linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với khả năng, điều kiện của mỗi trường, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Đồng thời, chủ động xây dựng chiến lược phát triển cơ sở vật chất, thu hút đầu tư hiệu quả. 

5. Kết luận

Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đang có nhiều vấn đề đặt ra, trong đó có hai vấn đề cần quan tâm là hạ tầng giáo dục đại học và đội ngũ giảng viên của các trường. Sự thành công hay thất bại của sự tăng trưởng giáo dục đại học và chất lượng đầu ra của giáo dục đại học phụ thuộc vào nguồn lực dành đầu tư cho sự phát triển cơ sở hạ tầng cũng như phát triển nguồn nhân lực của chính các cơ sở giáo dục đại học.

Đối với các dự án đầu tư bằng ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học không thuộc nhóm đầu tư về cơ sở vật chất thì Nhà nước cần phải có những cách thức quản lý khác, cụ thể và cần đổi mới. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả QLNN đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn mới.

Chú thích:
1. Về hoàn thiện chính sách tín dụng ưu đãi cho giáo dục đại học. https://www.tapchicongsan.org.vn/nghien-cu/-/2018/1686/ve-hoan-thien-chinh-sach-tin-dung-uu-dai-cho-giao-duc-dai-hoc-va-day-nghe.aspx
2. Đảm bảo 20% tổng chi ngân sách cho giáo dục – đào tạo. https://thoibaotaichinhvietnam.vn/dam-bao-20-tong-chi-ngan-sach-cho-giao-duc-dao-tao-61069.html
3. Đến năm 2030, Việt Nam nằm trong 4 quốc gia có hệ thống giáo dục đại học tốt nhất Đông Nam Á. https://daibieunhandan.vn/den-nam-2030-viet-nam-nam-trong-4-quoc-gia-co-he-thong-giao-duc-dai-hoc-tot-nhat-dong-nam-a-post346458.html
4. Đặng Thị Thu Giang (2022). Vai trò Nhà nước đối với phát triển giáo dục Đại học ở Việt Nam.Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, tr. 38 – 39.
5. Ban Chỉ đạo Đề án 165 (2021). Báo cáo tổng kết Đề án 165 (tháng 6/2021) tại Hội nghị ngày 16/7/2021.                      
6. Đào Văn Khanh, Phạm Thị Ly và Nguyễn Văn Tuấn (2018). Thực trạng và giải pháp cho việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học ở Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo: Giáo dục đại học Việt Nam hội nhập quốc tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
7. Lorenz Lassnigg and Martin Unger (2008), Finding higher Education – where is Austria going?UMAR 1/2008.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012). Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020. Hà Nội.
2. Chính phủ (2009). Nghị định số 12/2009/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
3. Chính phủ (2006). Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 về Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức.
4. Nguyễn, T. H. (2017). Hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ bản trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh, 33(3), 1-12.
5. Phan, T. T. H. (2019). Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục đại học Việt Nam. Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam.
6. Vũ, T. P. (2020). Đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản trong giáo dục đại học Việt Nam. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, 17 (4), 23-34.
7. Trần, N. T. (2021). Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục đại học ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, 11(2), 45-55.
8. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2021 về Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021 – 2030.
9. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 201/2021/QĐ-TTg ngày 28/12/2021 ban hành Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2021 – 2030.