Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc qua một số cuốn sách của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

PGS.TS. Nguyễn Thị Quyết
TS. Phùng Thế Anh

Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh

(Quanlynhanuoc.vn) – Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu hướng đến của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới, cũng là khát vọng, ước mơ của con người. Song hành trình để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là quá trình lâu dài, thường xuyên, liên tục gắn liền với cuộc đấu tranh xoá bỏ áp bức, bóc lột, bất công, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Từ khóa: Thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

1. Đặt vấn đề

Đối với Việt Nam, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là quan điểm, mục tiêu xuyên suốt của Đảng ta. Từ khi thành lập cho đến nay, các quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước được xây dựng, ban hành đều vì nước, vì dân, bảo đảm cho Nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần quan trọng vào đánh thức, khơi dậy các nguồn lực để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tạo sức mạnh nội sinh bên trong một cách ổn định, bền vững có thể huy động ở mọi lúc, mọi nơi phục vụ hữu ích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển”1.

2. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội – quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta

Ngay từ khi ra đời (03/02/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa, giải phóng dân tộc, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, bất công để thực hiện quyền thiêng liêng cao quý mà tạo hoá đã ban tặng là quyền được sống và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội đã từng bước được hiện thực hoá trong cuộc sống, thông qua các cuộc đấu tranh cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc, đó là: thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà đầu tiên của khu vực Đông Nam Á đã thiết lập nên hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương để đem lại ruộng đất cho người nông dân, xoá bỏ văn hoá thủ cựu, lạc hậu của xã hội cũ, thiết lập nền văn hoá của xã hội mới, xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đã giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước xâm lược, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Mỗi một giai đoạn, thời kỳ lịch sử đều gắn liền với mục tiêu thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của Đảng, Nhà nước ta, đem lại những điều kiện thuận lợi nhất để người dân được tự do phát triển trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật quy định. Đồng thời giải quyết tốt nhất những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp Nhân dân, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Do đó, quan điểm của Đảng ta về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội luôn gắn liền với thực tiễn vận động, phát triển của xã hội, phù hợp với xu thế của thời đại mới – thời đại bùng nổ của khoa học – công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Đại hội VI (năm 1986) Đảng ta đã đưa nội dung thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn với phát triển kinh tế: “thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”2. Đại hội XI (năm 2011) của Đảng chỉ rõ: “tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”3. Đại hội XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hiệp quốc); giải quyết hài hoà, giữ tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”4.

Đại hội lần thứ XIII (năm 2021) của Đảng một lần nữa khẳng định: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người”5. Nghị quyết 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới đã xác định quan điểm: “tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; tạo điều kiện để Nhân dân được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Từ những quan điểm của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, có thể rút ra một số nội dung cơ bản sau: 

Một là, Đảng ta khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hướng đến nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, tạo thành nguồn gốc, động lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Hai là, phát triển kinh tế phải luôn gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, quan tâm, chăm lo đến đời sống của Nhân dân một cách tốt nhất.

Ba là, quan tâm, chú trọng đến bảo vệ môi trường sinh thái trong phát triển kinh tế, bảo đảm không gian sinh sống trong lành, không bị ô nhiễm bởi các chất thải, khí độc do kinh tế gây ra.

Bốn là, bảo đảm tính ổn định, bền vững lâu dài của các chính sách xã hội, chính sách xã hội bao trùm, toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn6.

Sau gần 40 năm đổi mới toàn diện nền kinh tế – xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: từ một nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị bao vậy, cấm vận, nhập khẩu lương thực, thực phẩm, lạm phát tăng cao; đến nay, nước ta đã trở thành nước đang phát triển, là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trên thế giới; xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đã có mặt khắp các thị trường thế giới. Các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ được chú trọng đầu tư phát triển, trở thành trụ đỡ, bệ phóng bền vững của nền kinh tế.

Trong năm 2021 mặc dù bị ảnh hưởng của dịch bệnh nặng nề, song tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn ổn định. Thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam tiếp tục tăng cao; khoảng cách chệnh lệch giàu nghèo đang dần thu hẹp; chỉ số hạnh phúc tăng lên; thực hiện tốt mục tiêu bình đẳng giới, tỷ lệ nữ giới tham gia vào hệ thống chính trị các cấp tăng lên. Văn hoá, y tế, giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên thông qua hệ thống các thiết chế văn hoá, bệnh viện, trường học được bảo đảm đầy đủ, hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận và hưởng thụ. Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam tăng lên, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm đáng kể, phổ cập giáo dục tiểu học, tiến tới phổ cập giáo dục cơ sở.

Nhiều chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống, góp phần quan trọng vào việc củng cố, xây dựng mối đoàn kết gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân; khơi dậy ý chí, niềm tin mạnh mẽ trong Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị địa phương. Chính trị ổn định, trật tự, an toàn xã hội được duy trì nghiêm túc theo đúng quy định của Hiến pháp, pháp luật; quốc phòng, an ninh được củng cố, giữ vững và tăng cường. Các hoạt động đối ngoại, hợp tác với các tổ chức, các nước trong khu vực, thế giới được mở rộng. Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế7.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội còn một số hạn chế: một số địa phương chưa gắn chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân trên đầu người của một bộ phận tầng lớp Nhân dân còn thấp; đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi, đồng bào dân tộc thiểu số; cơ sở hạ tầng giao thông phục vụ nhu cầu đi lại, trao đổi hàng hoá và tiếp cận các dịch vụ xã hội hiện đại của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế; khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền còn lớn, ngay cả khu vực thành phố, đô thị cũng còn tồn tại tỷ lệ giàu – nghèo còn cao.

Một số dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân, tình trạng đông ở tuyến trung ương, ít ở tuyến huyện trong lĩnh vực y tế còn nhiều bất cập… Môi trường văn hoá vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn. Đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo còn không ít khó khăn… nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc8.

Nguyên nhân của hạn chế trên là do nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa sâu sắc toàn diện về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, chưa cụ thể hoá vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử ở từng lĩnh vực, hoạt động để lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết dứt điểm khâu yếu, mặt yếu. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương hành động chưa mạnh mẽ, quyết liệt đưa những nghị quyết của Đảng về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội vào thực tiễn cuộc sống. Công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp đối với việc thực hiện các nghị quyết của Đảng về chính sách xã hội chưa tích cực, chủ động. Chưa xử lý dứt điểm những vướng mắc, khúc mắc trong nội bộ cơ quan, đơn vị, địa phương và những kiến nghị của một bộ phận nhân dân ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương về những chế độ, chính sách có liên quan đến quyền và lợi ích của cán bộ, đảng viên, công chức, Nhân dân.

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, với nhiều thời cơ, vận hội đã được tích luỹ qua gần 80 năm lập nước và gần 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã, đang và sẽ tạo ra bước chuyển biến mới về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh thực hiện tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khát vọng của dân tộc Việt Nam, xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mình. Những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong 40 năm đổi mới đã tạo thế và lực mới, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế; niềm tin của Nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc… Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới9.

2. Một số nội dung, biện pháp thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội qua một số cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Một là, tiếp tục rà soát các văn bản có liên quan đến việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Đảng ta đã chỉ rõ, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về chính sách xã hội bảo đảm thống nhất, đồng bộ, khả thi, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, tiệm cận với tiêu chuẩn quốc tế và tổ chức thực hiện có hiệu quả10. Với tinh thần này, cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục, rà soát các văn bản đã ban hành, nếu còn hợp lý cần hành động mạnh mẽ, quyết liệt, không còn hợp lý thay thế văn bản mới phù hợp với bối cảnh lịch sử mới. Các văn bản được ban hành cần có tuổi thọ lâu dài, bền vững, dễ triển khai, tổ chức thực hiện, hướng đến người dân, doanh nghiệp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn trong từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể.

Gắn việc thực hiện phát triển kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, không ai bị bỏ lại phía sau, tạo sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức, hành động trong toàn xã hội. Mỗi chính sách xã hội khi được ban hành phải nhanh chóng đi vào thực tiễn cuộc sống, hoà vào mỗi cán bộ, đảng viên, công chức và mỗi người dân; có như vậy, mới góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng lòng tin của các tầng lớp Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu11. Những cơ chế, chính sách về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bao trùm, toàn diện, đầy đủ, đồng bộ và thống nhất trên các mặt, lĩnh vực; góp phần quan trọng vào việc khơi dậy ý chí, khát vọng vươn lên trong công việc, cuộc sống của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và kiều bào ta ở nước ngoài; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng về mặt thủ tục hành chính để người dân, doanh nghiệp được tiếp cận, được hưởng những kết quả từ những thay đổi về mặt thể chế của Đảng, Nhà nước ban hành.

Hai là, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu12. Theo đó, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần nắm chắc chức trách, nhiệm vụ được phân công; gương mẫu trong lời nói và hành động, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; tuyệt đối không để gia đình, vợ con, người thân quen tham gia vào các hoạt động của doanh nghiệp. Phải đặt ra những yêu cầu cao cho giải quyết, xử lý các mối quan hệ trong nội bộ cơ quan, đơn vị, địa phương và doanh nghiệp, người dân. Xây dựng phương pháp tác phong làm việc khoa học, khẩn trương, dứt khoát, đặt lợi ích của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết; tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cấp dưới, có quan điểm, chính kiến rõ ràng trong từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể, không để những tổ chức, cá nhân có lòng dạ không trong sáng tham mưu không đúng, trúng rồi đưa ra những quyết định không có lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Trên cơ sở có sự tham gia, hỗ trợ, giúp đỡ của các bộ phận, lực lượng trong giải quyết công việc, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần phải nâng cao năng lực nhận biết, đánh giá sự việc, tình huống một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể; am hiểu các vấn đề xã hội, nắm chắc luật pháp, nguyên tắc của Đảng. Có tinh thần “7 dám” trong công việc, cuộc sống, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho cấp dưới thuộc quyền quản lý, người dân, doanh nghiệp phát huy năng lực, sở trường, thế mạnh cho cơ quan, đơn vị, địa phương. Biết huy động, khơi dậy các nguồn lực bên trong và bên ngoài, giữ vững mối đoàn kết, gắn bó trong nội bộ, mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị, địa phương khác, nhất là doanh nghiệp lớn có uy tín trong sản xuất, kinh doanh.

Là hạt nhân đoàn kết, trung tâm trong các hoạt động của cơ quan, đơn vị, địa phương để phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể trong tham mưu, góp ý, chung sức, đồng lòng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, văn hoá, y tế, giáo dục, quốc phòng, an ninh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới. Đồng thời, phát huy văn hoá tự giác từ chức của người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương khi không hoàn thành những chỉ tiêu, nội dung đã xác định, xảy ra tham nhũng, tiêu cực, trì trệ, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên, công chức và Nhân dân.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp đối với việc thực hiện chính sách xã hội.

Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân13. Với tinh thần này, cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp định kỳ tổ chức các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan đến người dân, doanh nghiệp, như chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình phát triển bền vững, xoá đói giảm nghèo ở miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện công trình giao thông, xây dựng bệnh viện, trường học… ; đề cao tinh thần, trách nhiệm, tính liêm khiết của uỷ ban kiểm tra các cấp đối với cơ quan, đơn vị, địa phương; kiểm tra, giám sát, kết luận một nội dung, sự việc phải bảo đảm tính khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch, không vì động cơ cá nhân lồng ghép những dụng ý xấu, gây bất lợi cho cơ quan, đơn vị, địa phương, hoặc trù dập cấp dưới. Phải tỉnh táo, mưu lược trong quá trình thanh tra, kiểm tra, giám sát, không để những bộ phận, lực lượng bị thanh tra, kiểm tra, giám sát mua chuộc, dụ dỗ bằng những hành động, việc làm phi pháp.

Việc kiểm tra, giám sát cần cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết hoá từng nội dung, công việc, chỉ ra được những sai phạm, hạn chế của đối tượng, tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, liên quan đến chế độ, chính sách của người dân, doanh nghiệp, như: thực hiện luật đất đai, giải phóng, quy hoạch mặt bằng, đền bù, đấu thầu giữa các doanh nghiệp tư nhân, bổ nhiệm cán bộ, sử dụng cán bộ, xử lý cán bộ… Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát được tiến hành theo kế hoạch đã xác định hoặc không theo kế hoạch, đột xuất đối với một cơ quan, đơn vị, địa phương cụ thể khi phát hiện thấy có dấu hiệu vi phạm quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Khi phát hiện sai phạm của cá nhân, tổ chức trong thực hiện chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước đối với Nhân dân xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật, không nể nang, dung túng, bao che cho những hành vi sai phạm; cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cũng phải chịu trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước về những sai phạm của cấp dưới.

3. Kết luận

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là mục tiêu, lý tưởng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, là quá trình lâu dài, liên tục gắn liền với cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng14.

Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, người dân và doanh nghiệp, kiều bào ta ở nước ngoài phải luôn nêu cao tinh thần đồng tâm, hiệp lực, thống nhất cao về ý chí, hành động cách mạng trong hoạt động thực tiễn để thực hiện có hiệu quả mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội. Thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội cần được hiện thực hoá thành những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực đối với từng chính sách gắn với các đối tượng khác nhau để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng được sống trong tình thương, sự sẻ chia, yêu thương, giúp đỡ nhau và có mái nhà kiên cố, an toàn để gìn giữ và phát huy hệ giá trị văn hoá con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Đây cũng chính là thông điệp, mong muốn, ước nguyện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi gắm thông qua các bài viết được tập hợp thành những cuốn sách có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay.

Chú thích:
1, 6, 7, 11, 12, 13, 14. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27, 27, 33, 48, 56, 60, 35 – 36.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 86.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 21.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 87.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr.147 – 148.
8, 9. Nguyễn Phú Trọng (2024). Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 41, 42 – 43.
10. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) (2023). Nghị quyết 42-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.