Tăng cường tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học ở các trường đại học hiện nay 

Đại úy, ThS. Nguyễn Trung Kiên
Học viện Quân y
Trung tá, ThS. Nguyễn Trường Sinh
Học viện Lục quân

(Quanlynhanuoc.vn) – Gắn kết lý luận với thực tiễn là một nguyên tắc trong giảng dạy các môn lý luận Mác – Lênin, trong đó có môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Hiện nay, bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi, vì vậy, trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học để khắc phục tình trạng lý luận suông, cần phải bảo đảm nguyên tắc lý luận gắn thực tiễn. Bài viết khái quát vai trò cơ bản của thực tiễn, trên cơ sở phân tích, đánh giá, đề xuất một số giải pháp góp phần tăng tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học.  

Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội khoa học, lý luận chính trị, thực tiễn, trường đại học, giải pháp.

1. Đặt vấn đề

Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn là nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác – Lênin, là môn khoa học gắn bó chặt chẽ với thực tiễn lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, với công cuộc đấu tranh, xây dựng xã hội chủ nghĩa ở các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đây là mảnh đất hiện thực, trực tiếp kiểm nghiệm tính đúng đắn các nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học và là cơ sở để khái quát, bổ sung, phát triển những nguyên lý mới, làm phong phú thêm lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. 

Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học cần phải bảo đảm nguyên tắc lý luận gắn với thực tiễn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra rằng: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông1. Thời gian qua, việc giảng dạy các môn lý luận chính trị nói chung, môn chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng trong các trường đại học ở Việt Nam đã có sự chú trọng cụ thể hóa lý luận đã gắn lý luận với thực tiễn. Từ đó tạo nên tính tích cực học tập của người học, chất lượng dạy học được giữ vững và nâng cao. 

Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa kết quả dạy học lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn”2. Vì vậy, nhằm tiếp tục thực hiện tốt chủ trương trên, góp phần nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học, đòi hỏi các chủ thể liên quan đến quá trình dạy học phải nhận thức sâu sắc về vai trò của thực tiễn và thực hiện có hiệu quả các giải pháp cơ bản để tăng tính thực tiễn trong giảng dạy môn học này.

2. Vai trò của thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học

Thứ nhất, thực tiễn giúp người học hiểu sâu sắc những nội dung lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học. 

Chủ nghĩa xã hội khoa học không phải là một sản phẩm từ trí tưởng tượng của con người. Hệ thống các nguyên lý, quy luật của chủ nghĩa xã hội khoa học được các nhà kinh điển Mácxit xây dựng dựa trên khái quát các vấn đề thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Đồng thời, các nhà kinh điển Mácxit cũng đã bổ sung, phát triển hệ thống lý luận qua mỗi giai đoạn lịch sử, qua thực tiễn đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. 

Ngày nay, tình hình thức tiễn của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đã và đang vận động phát triển không ngừng. Vì vậy, người học cần biết và hiểu rõ hơn tình hình thực tiễn để thấy được những dự báo của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là hoàn toàn đúng đắn. Khi chú trọng gắn kết thực tiễn với lý luận, người học sẽ thấy được rằng, toàn bộ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cũng như mỗi nguyên lý của nó, trải qua chiều dài lịch sử, ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn.

Thứ hai, thực tiễn giúp người học củng cố lý tưởng cách mạng, niềm tin cộng sản của bản thân.

Lý tưởng cách mạng, niềm tin khoa học của người học vào mục tiêu xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được hình thành trên cơ sở nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn. Quá trình đấu tranh của giai cấp công nhân trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trực tiếp góp phần giáo dục chính trị – tư tưởng, cũng cố lý tưởng cách mạng, niềm tin cộng sản cho người học. Cụ thể là bồi dưỡng ý thức giác ngộ giai cấp, tình cảm cách mạng trên cơ sở lợi ích, lập trường giai cấp công nhân. Đó là tinh thần thái độ đấu tranh triệt để, đấu tranh đến cùng chống áp bức bóc lột, bất công, chống mọi biểu hiện xấu xa của chủ nghĩa cơ hội, xét lại; giáo dục lòng nhân ái, nhân văn của giai cấp công nhân. Đặc biệt, lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trực tiếp tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản lĩnh chính trị, niềm tin có cơ sở khoa học đối với sức mạnh, vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng giai cấp, con người, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản nhất là trong bối cảnh hiện nay. Thông qua đó, kết quả của người học cũng sẽ đáp ứng mục tiêu về thái độ của quá trình dạy học là có thái độ chính trị đúng đắn, tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng ta.

Thứ ba, thực tiễn là nguồn tư liệu giúp người học có căn cứ trong đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.

Một nhiệm vụ vô cùng quan trọng bắt đầu từ khi chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời là đấu tranh, phê phán, bác bỏ những tư tưởng sai trái, xuyên tạc lý luận chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự trong sáng và tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác – Lênin và những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. 

Hiện nay, chủ nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào tạm thời. Sau sự kiện các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã từng bước rơi vào khủng hoảng và sụp đổ “Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội”3. Họ lập luận rằng, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô và Đông Âu là biểu hiện cho thấy chủ nghĩa Mác – Lênin là sai lầm, không còn giá trị; rằng Việt Nam đi theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đi ngược lại quy luật của lịch sử. Vì vậy, việc đưa ra những minh chứng thực tiễn như hạn chế, mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản, thực tiễn về thành tựu của công cuộc đổi mới đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước, như: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba… là cơ sở khẳng định tính đúng đắn của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, phê phán, bác bỏ các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch.

3. Một số giải pháp tăng tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay

Một là, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể về nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học.

Đây là giải pháp quan trọng, chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình tăng tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Các thành phần, lực lượng cần có nhận thức sâu sắc rằng, việc tăng tính thực tiễn trong giảng dạy là một nguyên tắc, một yêu cầu bắt buộc đối với các môn lý luận chính trị nói chung, chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Theo đó, Đảng ủy và Ban Giám hiệu nhà trường cần quan tâm và xác định rõ chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn lý luận chính trị, trong đó có yêu cầu tăng tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học; chỉ đạo các cơ quan chức năng như phòng đào tạo, phòng khảo thí và bảo đảm chất lượng giáo dục tham mưu về kế hoạch đổi mới nội dung, phương pháp, cách thức kiểm tra đánh giá đảm bảo tăng tính thực tiễn đối với môn học, tham mưu tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng, tham quan trao đổi nhằm nâng cao hiểu biết và năng lực thực tiễn đối với đội ngũ giảng viên.

Lãnh đạo, quản lý các khoa, bộ môn phải chú trọng giáo dục cho giảng viên hiểu rõ vị trí, vai trò của thực tiễn trong giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học, thường xuyên kiểm tra nội dung bài giảng được biên soạn và quá trình thực hành giảng dạy trên lớp của giảng viên. Giảng viên cần căn cứ vào đối tượng đào tạo của nhà trường để biên soạn giáo án, bài giảng cho phù hợp, bảo đảm tính khoa học, tính thực tiễn; nội dung phải cập nhật những vấn đề chính trị xã hội quan trọng mang tính thời sự cao. Đặc biệt, giảng viên cần nêu cao ý thức trau dồi chuyên môn, chú trọng mở rộng kiến thức và liên hệ với thực tiễn nghề nghiệp của đối tượng người học.

Hai là, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ giảng viên thực hiện giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học.

Đội ngũ giảng viên là người trực tiếp truyền đạt kiến thức môn học đối với người học. Đây là lực lượng đóng vai trò làm “mềm hóa” những lý luận khô khan của chủ nghĩa xã hội khoa học thông qua tăng cường tính thực tiễn vào trong nội dung bài giảng của mình. Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tập trung xây dựng, củng cố, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên”4. Để nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ giảng viên, đặc biệt là đội ngũ giảng viên trẻ tham gia giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học trước hết bản thân đội ngũ giảng viên phải không ngừng thường xuyên học tập, nghiên cứu nắm chắc các sự kiện lịch sử đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Mỗi giảng viên trong quá trình biên soạn bài giảng cần xác định các ví dụ về thực tiễn phải khoa học, phù hợp với nội dung đơn vị kiến thức bài học, nắm chắc các phương pháp giảng dạy tích cực đã được xác định sẽ sử dụng trong quá trình dạy học. 

Ngoài ra, lãnh đạo, quản lý các khoa có giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học cần quan tâm đề xuất tổ chức các hoạt động tham quan, tập huấn, trao đổi học thuật và thực tiễn ở các đơn vị bạn, ở địa phương và các tổ chức chính trị xã hội. Thông qua các hoạt động thực tiễn trên, giảng viên có cơ hội tích lũy kiến thức thực tiễn, từ đó am hiểu sâu sắc các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sâu rộng.

Ba là, cập nhật nội dung, đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá kết quả theo hướng phát huy phẩm chất, năng lực của người học.

Thực tiễn luôn vận động, biến đổi cùng với thời gian và hoàn cảnh của hoạt động đó. Ở những giai đoạn khác nhau, thực tiễn đời sống chính trị – xã hội cũng diễn ra cũng khác nhau, do đó cần cập nhật tình hình của đất nước và thế giới. Trong quá trình xây dựng bài giảng, giảng viên cần cập nhật đường lối, quan điểm, chính sách mới của Đảng và Nhà nước; chú trọng khai thác tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội trong nước và quốc tế trên các phương tiện thông tin chính thống để đưa vào nội dung bài giảng. 

Đổi mới phương pháp giảng dạy cần tập trung theo hướng phát huy tối đa năng lực sáng tạo, tính tích cực của người học; tích cực bồi dưỡng, nâng cao chất lượng tự học, tự nghiên cứu, từng bước biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, khắc phục tình trạng truyền thụ kiến thức một chiều. Theo đó, giảng viên cần kết hợp thuyết trình độc thoại với sử dụng các phương pháp dạy học tích cực như nêu vấn đề, thảo luận nhóm, lựa chọn kỹ lưỡng những vấn đề thực tiễn bảo đảm tính điển hình, tính khái quát, mô phạm, mang tính thời sự, phản ánh sâu sắc đời sống kinh tế, chính trị – xã hội để xây dựng tình huống thảo luận.

Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học được đổi mới theo định hướng chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Vì vậy, bên cạnh đánh giá việc nắm vững những tri thức cơ bản, cốt lõi nhất về chủ nghĩa xã hội khoa học, cần phải đánh giá năng lực hiểu biết thực tiễn và khả năng vận dụng các tri thức nói trên của người học vào việc xem xét làm rõ những vấn đề chính trị – xã hội của đất nước liên quan đến chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đánh giá khả năng vận dụng lý luận và thực tiễn nhằm đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội của dân tộc. 

Bốn là, kết hợp hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học.

Giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai nhiệm vụ chính của giảng viên nói chung, giảng viên giảng dạy chủ nghĩa xã hội khoa học nói riêng. Vì vậy, lãnh đạo, quản lý các khoa, bộ môn đảm nhiệm giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học cần chú trọng bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học đối với đội ngũ giảng viên. Nội dung bồi dưỡng tập trung vào kỹ năng phát hiện các vấn đề thực tiễn, kỹ năng vận dụng lý luận vào giải quyết vấn đề thực tiễn nghiên cứu. 

Thường xuyên, định kỳ tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng tổng kết thực tiễn bổ sung lý luận kết hợp đi nghiên cứu khảo sát, khai thác thông tin ở các phương tiện truyền thông để cập nhật kiến thức, cũng như tích cực nghiên cứu các tài liệu chính thống nhất là tác phẩm kinh điển, các văn kiện của Đảng… đây là dạng thực tiễn có độ tin cậy chính xác cao, vừa có tính cụ thể, vừa có tính khái quát. Thông qua nghiên cứu khoa học không chỉ trực tiếp giải quyết những vấn đế thực tiễn đặt ra mà còn nhằm củng cố kiến thức lý luận cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học trong việc luận giải những vấn đề chính trị – xã hội đang diễn ra.

4. Kết luận

Gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, luôn cập nhật và tăng tính thực tiễn là một nguyên tắc trong nâng cao chất lượng giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học ở các trường đại học hiện nay. Bên cạnh đó, kết quả của việc tăng tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học còn góp phần hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản cho người học. Vì vậy, đòi hỏi các lực lượng liên quan, đặc biệt là đội ngũ giảng viên cần có nhận thức đúng về vai trò của thực tiễn và thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy môn chủ nghĩa xã hội khoa học.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 274.
2, 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 235, 236.
3. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con-duong-di-len-chu-nghia-xa-hoi-o-viet-nam
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật. 
2. Đặng Trường Minh, Phạm Văn Phú (2023). Tăng cường tính thực tiễn trong giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại họcTạp chí Lý luận chính trị số 544 (tháng 6/2023).
3. Đỗ Công Tuấn, Đặng Thị Linh (2013). Giáo trình lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa. H. NXB Giáo dục Việt Nam.
4. Tổng cục Chính trị (2003). Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (giáo trình đào tạo bậc đại học). H. NXB Quân đội nhân dân.