Đổi mới chế độ bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân trong mô hình thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam hiện nay

TS. Nguyễn Thúy Hoa
Học viện Chính trị khu vực I

(Quanlynhanuoc.vn) – Bầu cử cơ quan đại diện, lấy ý kiến Nhân dân là những phương thức thực thi dân chủ trong tiến trình xây dựng nhà nước hiện đại. Trên cơ sở các quy định pháp lý về vấn đề này, bài viết nhận diện những yêu cầu đổi mới chế độ bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân và đề xuất một số kiến nghị phù hợp với mô hình đô thị thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân, thực thi dân chủ, nhà nước hiện đại, thành phố thuộc thành phố, trực thuộc Trung ương.

1. Bầu cử cơ quan đại diện, lấy ý kiến Nhân dân – phương thức thực thi dân chủ Nhân dân

Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp (sau đây viết tắt là cơ quan đại diện) và lấy ý kiến Nhân dân là phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp trong đời sống chính trị. Có thể nói, đây là một trong những quyền chính trị thiêng liêng của công dân được ghi nhận ngay từ bản Hiến pháp năm 1946.

Bầu cử là phương thức lựa chọn người đại diện, thay mặt cho công dân để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ nhất định. Trên thế giới, chế độ bầu cử thường được thực hiện qua hai hình thức: bầu cử trực tiếp và bầu cử gián tiếp. Bầu cử gián tiếp là hình thức cử tri không trực tiếp bầu ra người đại biểu của mình mà chỉ bầu ra các đại biểu, thường được gọi là đại cử tri và chính các đại cử tri mới bầu ra người cần được bầu. Hoặc cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu cấp cơ sở và các đại biểu cấp cơ sở của một địa phương cùng với các đại biểu ở cấp cơ sở khác bầu ra đại biểu cấp trên trực tiếp để các đại biểu cấp trên trực tiếp này lại cùng nhau bầu ra cấp cao hơn, lần lượt cho đến cấp trung ương. Xét một cách khách quan, bầu cử trực tiếp được đánh giá là tiến bộ hơn hình thức bầu cử gián tiếp. Trong hình thức bầu cử trực tiếp, chế độ phổ thông đầu phiếu được xem là tiến bộ nhất vì việc bầu cử được thực hiện theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Lịch sử chế độ bầu cử dân chủ của nước ta cho thấy, từ lần đầu tiên được tổ chức ngày 6/01/1946 Việt Nam đã thực hiện theo chế độ bầu cử dân chủ, minh bạch theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu và liên tục được bảo đảm thực hiện cho đến hiện nay.

Đối với hoạt động bầu cử cơ quan đại diện, pháp luật về bầu cử Việt Nam quy định: bầu cử và ứng cử là quyền công dân1 và bảo đảm qua việc thực hiện 4 nguyên tắc cơ bản: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ở góc độ lý luận, những nguyên tắc dân chủ, khoa học này đã đem đến cho cử tri Việt Nam sự công bằng, minh bạch trong việc thực hiện quyền chính trị thiêng liêng. Đó cũng là các điều kiện bảo đảm cho Quốc hội, HĐND các cấp được xây dựng dựa trên tự do ý chí và hành động của mỗi cử tri trong việc ứng cử, đề cử, lựa chọn ra các đại biểu đại diện cho lợi ích của mình mà không bị phân biệt hay hạn chế bởi các rào cản như giới tính, ngành nghề, vùng miền, điều kiện kinh tế…

Bầu cử là phương thức dân chủ và hợp hiến để chuyển giao quyền lực nhân dân sang hệ thống cơ quan đại diện dân cử. Thông qua sự “ủy quyền” này, Quốc hội, HĐND các cấp được thành lập và tiếp nhận quyền lực từ cử tri cả nước để thực hiện các sứ mệnh cao cả. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thay mặt Nhân dân thực hiện quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Các cơ quan do Quốc hội thành lập và người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Quốc hội và chịu sự giám sát của Quốc hội.

Để bảo đảm thiết chế đại diện tại chính quyền địa phương, pháp luật ghi nhận vị trí, vai trò của HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Cả hai thiết chế đại diện này đều được hình thành thông qua bầu cử với các nguyên tắc, tổ chức, trình tự bầu cử, xác định kết quả bầu cử đã được Hiến pháp, luật bầu cử quy định (bao gồm ba nội dung chính: (1) Quyền bầu cử và ứng cử; (2) Quá trình tổ chức bầu cử (vận động bầu cử và bầu cử); (3) Cơ chế xác định người trúng cử. Với phương thức hình thành này cơ quan đại diện thực sự là ý chí của Nhân dân và bảo đảm tính đại diện rộng rãi nhất trong đời sống chính trị.

Nếu như bầu cử là phương thức thực hiện dân chủ đại diện thì lấy ý kiến nhân dân hiện nay là hình thức được đông đảo giới nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý, các tổ chức xã hội quan tâm. Từ nhu cầu của đời sống dân chủ, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 thì lấy ý kiến Nhân dân chính là mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của nhà nước, là một yêu cầu cấp thiết đặt ra trong đời sống chính trị hiện đại.

Hiện nay, việc lấy ý kiến Nhân dân đang được điều chỉnh bằng nhiều luật. Trực tiếp điều chỉnh có Luật Trưng cầu ý dân, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Tiếp công dân…. Điều chỉnh gián tiếp trong chỉnh thể hệ thống pháp luật có Luật Tố cáo, Luật Khiếu nại, Luật Tiếp cận thông tin… và gần đây nhất, áp dụng trực tiếp tại đời sống cơ sở là Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Như vậy có thể thấy, tùy từng lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống pháp luật được hoàn thiện, đồng bộ đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước, quản lý xã hội của Nhân dân, nhất là tại các đô thị lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội của quốc gia, khu vực. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến việc lấy ý kiến Nhân dân theo sự điều chỉnh của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội thông qua vào năm 2022, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/7/2023.

Trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội về việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị định số 04/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2015 của Chính phủ về thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập; Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động năm 2019 về điều kiện lao động và quan hệ lao động (trong đó quy định về thực hiện dân chủ tại nơi làm việc), Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 đã tạo ra cơ chế cho việc lấy ý kiến Nhân dân ở cơ sở.

Với những nội dung Nhân dân tham gia ý kiến để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất các quy định liên quan đến nội dung và hình thức Nhân dân tham gia ý kiến ở tất cả các loại hình cơ sở phù hợp với các luật chuyên ngành có liên quan. Hiện nay, các quy định đã xác định rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND, tập thể UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã trong việc tổ chức thực hiện để Nhân dân tham gia ý kiến, trách nhiệm tham gia của Nhân dân trong việc tích cực tham gia ý kiến2.

Như vậy có thể thấy, việc thực hiện thực thi lấy ý kiến Nhân dân ở cơ sở đã có một diện mạo pháp lý mới so với các quy định trước đây. Thứ nhất, mở rộng phạm vi công khai thông tin ở cấp xã phù hợp với quy định của Luật Tiếp cận thông tin và pháp luật hiện hành. Thứ hai, đa dạng hóa hình thức công khai thông tin ở cấp xã, bổ sung một số hình thức mới như đăng tải thông tin trên Cổng thông tin điện tử, Trang thông tin điện tử; thông qua hội nghị trao đổi, đối thoại giữa UBND cấp xã với Nhân dân; thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của UBND cấp xã theo quy định của pháp luật, thông qua mạng xã hội… Thứ ba, mở rộng dân chủ trực tiếp tại cấp xã theo hướng bổ sung các vấn đề Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp; quy định về sáng kiến đề xuất của Nhân dân. Thứ tư, quy định về hình thức văn bản của cộng đồng dân cư, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ văn bản của cộng đồng dân cư; thay đổi thẩm quyền công nhận hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố từ UBND cấp huyện sang UBND cấp xã. Thứ năm, bổ sung quy định về trách nhiệm lấy ý kiến Nhân dân, ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trong quá trình UBND cấp xã ban hành các quyết định hành chính liên quan đến lợi ích của cộng đồng hoặc quyết định hành chính có nội dung xác lập nghĩa vụ, làm chấm dứt, hạn chế quyền, lợi ích của đối tượng thi hành.

Để bảo đảm cho việc lấy ý kiến Nhân dân được khả thi, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng quy định rõ các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở; quy định cụ thể trách nhiệm của HĐND, UBND cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, người sử dụng lao động trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; quy định kết quả thực hiện dân chủ tại cơ quan, đơn vị là căn cứ để đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, khen thưởng, kỷ luật, đánh giá và xếp loại chất lượng đảng viên đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị; quy định trách nhiệm của các cơ quan trung ương, bộ ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng trong việc bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở.

2. Thành phố Thủ Đức thuộc thành phố trực thuộc trung ương và những yêu cầu đổi mới chế độ bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân

Hai thập niên gần đây, Việt Nam đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, tốc độ đô thị hóa đặc biệt diễn ra nhanh và mạnh ở các đô thị lớn, như: TP. Hồ chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh… Với diện tích tự nhiên và hạ tầng hiện có, các đô thị truyền thống luôn phải đối diện với các bài toàn áp lực dân cư, lao động – việc làm, môi trường, dịch vụ, an ninh trật tự, từ đó việc cân bằng giữa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội gắn với phát triển bền vững và đô thị hóa là vấn đề trọng yếu luôn được đặt ra trong quản trị đô thị. Thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy, việc hình thành các đô thị vệ tinh ở gần các đô thị trung tâm được cho là giải pháp khả thi và toàn diện trong việc giải phóng nguồn lực, hình thành cực tăng trưởng mới, đặc biệt là giảm bớt áp lực cho các đô thị trung tâm. Việc hình thành các đô thị mới – đô thị vệ tinh chính là việc tổ chức, sắp xếp lại đơn vị hành chính lãnh thổ đô thị trên cơ sở công nhận sự đa dạng của các lãnh thổ đô thị để tiến tới tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở vùng đô thị, phát huy nguồn lực đô thị. Đó là một phương thức điều tiết và kiểm soát đô thị hóa phù hợp các lý lẽ thông thường, khách quan của quá trình phát triển đô thị nói chung.

Trước khi thành lập, thành phố Thủ Đức là địa bàn 3 quận phát triển nhất của TP. Hồ Chí Minh gồm: Quận Thủ Đức, Quận 2, Quận 9 với tổng diện tích 211,56 km2, chiếm 10% diện tích TP. Hồ Chí Minh. Quy mô dân số 1.013.795 người, bằng khoảng 10% dân số TP. Hồ Chí Minh, đóng góp tổng sản phẩm trên địa bàn bằng 1/3 tổng sản phẩm của TP. Hồ Chí Minh, đóng góp 7% tổng sản phẩm nội địa của cả nước, chỉ sau GRDP của Hà Nội, đứng thứ ba cả nước3.

Quá trình hình thành một thành phố thông thường chủ yếu nhằm mục đích hình thành cơ chế quản trị một khu vực đô thị tập trung để chăm lo mọi mặt đời sống của dân cư khu vực đô thị đó tương xứng với quy mô của nó. Ở Việt Nam, việc thành lập thành phố thường nhằm mục tiêu đạt được nguồn lực nhiều hơn để đẩy nhanh quá trình đô thị hóa của địa bàn. Tuy nhiên, đối với thành phố Thủ Đức thì không chỉ như vậy. Khi chưa thành lập thành phố thì nơi đây cũng đã là một trong những khu vực đô thị đầy đủ với mức độ đô thị hóa cao, nằm trong mô hình quản trị chung của đơn vị hành chính thành phố trực thuộc trung ương. Việc thành lập thành phố là nhằm mục đích phát triển khu vực ngã ba sông Sài Gòn, sông Đồng Nai thêm một bậc, trở thành trung tâm tài chính, trung tâm kinh tế, công nghệ, tri thức, đô thị xanh, hiện đại với nhiều chỉ tiêu phát triển đầy tham vọng.

Không thể phủ nhận, việc thành lập thành phố Thủ Đức như đã đề cập trên gắn với mục tiêu phát triển kinh tế khu vực Đông Nam Bộ với đổi mới cơ chế, tăng mạnh phân cấp, phân quyền và ứng dụng công nghệ số trong quản trị. Tuy nhiên, đây cũng là bài toán phải tính đến trong việc phát huy và đảm bảo các giá trị dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân bởi suy cho cùng, phát triển kinh tế phải dựa trên phát triển nguồn nhân lực, mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải phục vụ cho mục tiêu phát triển con người, phát triển bền vững.

Tuy nhiên, nhìn vào hệ thống thể chế hiện nay, chúng ta thấy đang áp dụng “chiếc áo” pháp lý cho mọi cơ thể mà chưa tính toán “may đo” trên từng “cơ thể” hay chính là xây dựng thể chế dựa trên đặc thù của mỗi chính quyền địa phương. Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Thực hiện dân chủ và nhiều văn bản pháp luật khác đều đang được áp dụng như nhau trên mọi miền Tổ quốc từ nguyên tắc, quy trình, phương thức thực hành dân chủ của Nhân dân. Nhìn ở góc độ pháp chế trong nhà nước pháp quyền, điều này có cơ sở ngăn ngừa sự tùy tiện, tạo dựng “hàng rào” hay luật chơi của mỗi chính quyền địa phương, song nếu không xây dựng những cơ chế đặc thù thì thành phố Thủ Đức vẫn chỉ mãi là một đơn vị hành chính cấp huyện trong việc nâng cao năng lực tự chủ, phát huy dân trí, dân quyền trong tiến trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Có thể nhận thấy một số vấn đề là “rào cản” với thành phố Thủ Đức trong việc thực hiện bầu cử cơ quan đại diện và lấy ý kiến Nhân dân như sau:

Ở nội dung thực hiện quyền bầu cử cơ quan đại diện có thể thấy: thành phố Thủ Đức là đơn vị thực hiện mô hình không có HĐND trong tổ chức chính quyền địa phương phường. Sức nặng và trách nhiệm của hệ thống cơ quan dân cử truyền thống này nay dồn lên HĐND thành phố Thủ Đức, đòi hỏi phải có một cơ chế bầu cử dân chủ, khoa học, phù hợp với dân trí, dân sinh để hướng đến một cơ quan đại diện chuyên nghiệp, thực quyền – thực sự là đại diện ý chí và quyền lợi của cử tri thành phố Thủ Đức. Những quy định về bầu cử hiện nay đang trở thành “rào cản” pháp lý, khiến cho hoạt động bầu cử còn nặng tính hình thức, tốn kém nhân lực, vật lực; chưa gắn kết ứng cử viên/đại biểu với cử tri; công tác vận động bầu cử còn mang tính thủ tục, thiếu tính cạnh tranh; chưa ràng buộc trách nhiệm của các nhà đại diện với chiến lược hành động với lời hứa trước cử tri trước mỗi kỳ bầu cử…

Chính vì vậy, để bảo đảm vị trí, quyền năng của cơ quan dân cử với các cấp hành chính tại thành phố Thủ Đức, cần xây dựng HĐND thành phố hoạt động hiệu lực, hiệu quả, xứng đáng là cơ quan đại diện của cử tri thành phố Thủ Đức. Người đại biểu HĐND thành phố Thủ Đức phải hội tụ đầy đủ năng lực, trí tuệ, đạo đức, là “tinh hoa” đại diện cho ý chí và nguyện vọng của cử tri toàn thành phố, giám sát các cơ quan hành chính các cấp, bám sát cử tri trong mỗi chiến lược hành động, bảo đảm tính định hướng vì Nhân dân cho nền hành chính công tại thành phố, phường trong vận hành. 

Ở nội dung lấy ý kiến Nhân dân có thể thấy, thành phố Thủ Đức là nơi có trình độ dân trí cao và đồng đều so với mặt bằng cả nước. Các yếu tố lịch sử, văn hóa cho thấy, đây là vùng, miền dễ tiếp cận, thích ứng với các xu hướng mới, thịnh hành của các yếu tố chính trị, pháp lý. Khoa học – công nghệ phát triển, hệ thống nền tảng hạ tầng số hiện đại và khá đồng bộ, như: nền tảng điện toán đám mây, nền tảng danh tính số và các nền tảng về phần mềm, trí tuệ nhân tạo, an toàn, an ninh mạng… Do vậy, với các quy định về nội dung/phạm vi các vấn đề lấy ý kiến Nhân dân hay phương thức lấy ý kiến Nhân dân như hiện nay chưa phát huy, khai thác được hết thế mạnh của dân trí, năng lực thực hành dân chủ của một trong các đô thị phát triển bậc nhất ở Việt Nam hiện nay.

3. Đổi mới chế độ bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân – cơ chế đặc thù cho thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

Từ những cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn của thành phố Thủ Đức để đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân trong mô hình đô thị phát triển nói chung, mô hình thành phố trong thành phố trực thuộc trung ương nói riêng cần chú trọng những vấn đề sau:

Thứ nhất, đổi mới nhận thức về vấn đề bầu cử đại biểu cơ quan dân cử và lấy ý kiến Nhân dân.

Trong điều kiện hiện nay, đổi mới nhận thức về bầu cử đại biểu, lấy ý kiến Nhân dân phải bắt đầu từ việc Đảng, Nhà nước và Nhân dân có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò, trách nhiệm chính trị của mỗi công dân. Cần phải nhận thức rằng: bầu cử cơ quan quyền lực, lấy ý kiến Nhân dân là phương thức dân chủ, hợp pháp và văn minh nhất mà loài người đã sáng tạo và phát triển các giá trị cho đến thời điểm này.

Thông qua lấy ý kiến Nhân dân là sự tôn trọng Nhân dân, tính hướng về cơ sở, đồng thời, là thiết chế quy tụ người tài, phối hợp sức mạnh tập thể để thực hiện quyền quản lý nhà nước và xã hội. Bầu cử cơ quan đại diện nói chung hay lấy ý kiến Nhân dân nên được quy định là QuyềnNghĩa vụ của công dân mỗi địa phương. Ngoài ý nghĩa là quá trình thực hành và nâng cao trình độ dân chủ, ý thức chính trị của Nhân dân, đây cần hiểu là trách nhiệm/bổn phận của mỗi công dân trong quá trình tạo lập, bảo vệ và phát triển chính quyền của chính mình, vì mình mà phục vụ. Không thể có một chính quyền dân chủ nếu không đi từ dân dân ra và không thể có chính quyền vững mạnh nếu thiếu đi sự nuôi dưỡng, bảo vệ và giám sát từ Nhân dân. Do vậy, chỉ khi nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động bầu cử, mỗi người dân địa phương mới làm cho hoạt động này trở nên thực chất hơn, không còn tính hình thức, chiếu lệ. Cử tri Thủ Đức cầm lá phiếu sẽ thấy trách nhiệm và vai trò của mình khi lựa chọn, cân nhắc để bầu ra cơ quan đại diện, trong đề đạt ý chí, nguyện vọng. Từ đó có thái độ chủ động tiếp cận, sàng lọc thông tin để đưa ra các quyết định sáng suốt, tránh tư tưởng chạy theo số đông hay bị kích động, mua chuộc để cản trở hay gây khó khăn cho chính các cơ quan nhà nước trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, cần đa dạng các hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao dân trí để thực hành dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ của Nhân dân chỉ có thể được hiện thực hóa khi chính Nhân dân được tạo điều kiện, bảo đảm để thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”4.

Thứ hai, xây dựng “quy chế bầu cử” hiện đại, dân chủ, minh bạch áp dụng trong khu vực đô thị phát triển.

Trong thời gian trước mắt, cần quy định rõ bầu cử HĐND ở đô thị các tỷ lệ tối thiểu của một số cơ cấu: tỷ lệ đại biểu chuyên trách lên tối thiểu 50%, tăng tỷ lệ đại biểu không phải là đảng viên, tăng tỷ lệ tự ứng cử hướng đến xây dựng tính chuyên nghiệp của HĐND thành phố Thủ Đức. Tăng tỷ lệ cạnh tranh khi bầu cử bằng cách quy định các đại biểu HĐND thành phố Thủ Đức đương nhiệm, đồng thời là ứng cử viên của danh sách bầu cử khóa sau nếu có đủ điều kiện, có nguyện vọng tham gia khóa mới. Như vậy, bên cạnh danh sách giới thiệu thông thường, Thủ Đức sẽ có thêm một tỷ lệ không nhỏ ứng cử viên là người đã có kinh nghiệm đại biểu, tăng sức cạnh tranh cho cuộc bầu cử. Đồng thời, là động lực để các đại biểu nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ, phấn đấu hướng tới trúng cử nhiệm kỳ sau, dần dần xây dựng HĐND mang tính chuyên nghiệp. Điều này cũng khắc phục sự lãng phí với một đại biểu dân cử đã được rèn luyện kinh nghiệm, bản lĩnh đại biểu trong suốt cả nhiệm kỳ nhưng vì nhiều yếu tố cơ cấu, vị trí công tác… lại không được tiếp tục ứng cử khóa mới. Cho phép ứng cử viên được lựa chọn nơi ứng cử hoặc quy định bốc thăm đơn vị ứng cử, bảo đảm công bằng cho các ứng cử viên tại mỗi đơn vị bầu cử. Tránh cách sắp xếp danh sách theo kiểu “quân xanh, quân đỏ”.

Thứ ba, đa dạng trong các hình thức vận động bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân.

Việc tiếp xúc cử tri, lấy ý kiến Nhân dân không nên chỉ bó hẹp trong hoạt động do chính quyền, Mặt trận Tổ quốc triển khai. Với việc ứng dụng các nền tảng công nghệ số, xây dựng các phương án tiếp xúc, trao đổi, hỏi – đáp, đối thoại trực tiếp và trực tuyến với cử tri, thúc đẩy sự tham gia của người dân. Trong điều kiện nền tảng kỹ thuật số phát triển, dân trí ngày càng nâng cao, đặc biệt là việc chúng ta phải đối mặt với các khó khăn của dịch bệnh mang tính lây nhiễm mạnh, như: H5N1, Ebola, covid Corona … thì việc xây dựng các phương án bỏ phiếu, lấy ý kiến Nhân dân trực tiếp, kết hợp qua phiếu điện tử (mạng xã hội, ứng dụng di động…) là hoàn toàn phù hợp với tiến trình xây dựng chính phủ số và hạ tầng hiện có của thành phố Thủ Đức. Ngoài ra, việc mở rộng các hình thức Nhân dân tham gia ý kiến trực tuyến cũng là cơ chế bảo đảm được quyền bỏ phiếu, lấy ý kiến của các cử tri khi đang ở nước ngoài, ở các địa phương ngoài thành phố Thủ Đức. Đây đồng thời là các yêu cầu, nhiệm vụ mà chính quyền cần chuẩn bị các điều kiện bảo đảm tính khả thi cũng như an ninh chính trị nội bộ.

Thứ tư, phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương.

Nghiêm trị các vi phạm pháp luật, đặc biệt là các hành vi lợi dụng dân chủ để chống phá, gây mất ổn định về chính trị tại địa phương. Cần bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và xử sự của công dân. Thủ Đức cần đẩy mạnh cải cách thể chế, nhất là đơn giản hóa thủ tục hành chính; minh bạch và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, quyền hỗ trợ tư vấn pháp lý; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, gắn quyền với trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, hướng tới xây dựng một nền hành chính dân chủ, liêm chính, phục vụ Nhân dân.  

Thứ năm, phát huy vai trò của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố, các tổ chức chính trị – xã hội trong thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Các tổ chức chính trị – xã hội cần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác nắm bắt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng Nhân dân tại thành phố cũng như ở cơ sở; chủ động lắng nghe, kịp thời phản ánh, đề xuất ý kiến, kiến nghị của Nhân dân, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa bàn thành phố.

4. Kết luận

Bầu cử và tổ chức lấy ý kiến Nhân dân là công việc không thể thiếu trong tiến trình xây dựng Nhà nước dân chủ ở Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu. Đây là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết trong thực hành dân chủ, song phức tạp, nhạy cảm với nhiều nguy cơ tiềm ẩn đến sự vững mạnh của thể chế chính trị, sự an nguy của một cộng đồng dân cư mà mở rộng là quốc gia. Do đó, quyết tâm đổi mới cơ chế bầu cử, lấy ý kiến Nhân dân phải đi đôi với thận trọng, có lộ trình vững chắc song song với phát triển kinh tế, giữ vững quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền nhân dân. Có như vậy, việc thành lập thành phố Thủ Đức mới đạt các giá trị như chúng ta kỳ vọng, đó là, cân bằng giữa phát triển kinh tế, công nghệ số với an sinh xã hội, an ninh con người. Thủ Đức không chỉ là đầu tàu kinh tế phía Nam của TP. Hồ Chí Minh, của cả nước mà còn phải là nơi sáng tạo, thúc đẩy các giá trị tự do, dân chủ trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Chú thích:
1. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013, Điều 27.
2. Quốc hội (2022). Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022, Điều 28, 29.
3. Chính phủ (2020). Đề án số 591/ĐA-CP ban hành ngày 11/11/2020 về thành lập thành phố Thủ Đức thuộc TP. Hồ Chí Minh (Đề án số 591/ĐA-CP), tr. 4.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 173.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Thúy Hoa (2016). Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quốc hội – cơ quan đại diện cao nhất của Nhân dân Việt Nam. H.NXB Thanh niên. 2016.
2. Nguyễn Thúy Hoa và Nguyễn Thị Ngọc Mai. Đổi mới bầu cử đại biểu HĐND thành phố Hồ Chí Minh – cơ chế thực thi dân chủ ở chính quyền đô thị. Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, số 06 (166)/2023.