TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy
Học viện Phụ nữ Việt Nam
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích thực trạng rào cản tiếp cận bảo hiểm xã hội của lao động di cư phi chính thức tại Việt Nam dựa trên phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp từ các nghiên cứu liên quan trong và ngoài nước. Kết quả nghiên cứu chỉ ra, mặc dù người di cư có nhiều đóng góp cho phát triển kinh tế – xã hội nhưng họ lại gặp khó khăn trong tiếp cận về bảo hiểm xã hội – chế độ quan trọng nhằm bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động. Từ những phân tích đó, bài viết đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách bảo hiểm xã hội và tăng cường truyền thông nhằm nâng cao nhận thức cho người lao động di cư phi chính thức để họ được hưởng các quyền an sinh xã hội và công bằng xã hội trong thời gian tới.
Từ khóa: Chế độ bảo hiểm xã hội; tiếp cận; lao động; di cư phi chính thức; an sinh xã hội; công bằng xã hội.
1. Đặt vấn đề
Di cư là một hiện tượng phức tạp, liên quan đến những thay đổi trong văn hóa – xã hội, kinh tế và tâm lý của đời sống người di cư, gia đình và cộng đồng liên quan. Trên thế giới, vào nửa sau của thế kỷ XX, đặc biệt trong những năm 90, tình trạng di cư đã diễn ra phổ biến với số lượng gia tăng nhanh chóng và trở thành hiện tượng toàn cầu. Nguồn lao động di cư không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế ở nơi đến là các thành phố lớn hoặc các khu vực đang đô thị hóa nhanh mà còn góp phần cải thiện cuộc sống gia đình ở địa phương, nhưng để có được một khoản thu nhập thường xuyên ở thành phố, họ đã phải chịu nhiều thiệt thòi.
Zikic, J (2010) đã chỉ ra lao động di cư đang phải đối mặt với việc mất an toàn trong lao động, thiếu việc làm, điều kiện làm việc bấp bênh, thiếu thốn, thu nhập thấp và không ổn định nghề nghiệp1. Họ dễ bị tổn thương về mặt xã hội vì sống ở môi trường xã hội cô lập (Sargeant, M., & Tucker, E, 2009), ít có cơ hội tham gia vào các tổ chức công đoàn và dễ bị người chủ sử dụng lao động lợi dụng sức lao động2. Trên thực tế, các nghiên cứu của McGovern, Smeaton, & Hill (2004) và Burgess & Connell (2015) đã ghi nhận đặc điểm nhân khẩu học và xã hội của người lao động di cư như giới tính, tuổi tác, thiếu trình độ chuyên môn và thuộc nhóm dân tộc thiểu số dẫn đến việc khó khăn trong tìm việc làm với điều kiện lao động tốt hoặc có thể duy trì công việc trong một thời gian dài3. Họ được xếp vào nhóm bị tổn thương nhất do thường phải làm công việc mất an toàn vệ sinh, nguy hiểm và nặng nhọc, điều này dẫn đến giá trị bản thân của người lao động bị hạ thấp trong đời sống đô thị.
Ở nước ta, vấn đề di cư cũng đặt ra nhiều thách thức tương tự khi tiến trình mở cửa và hội nhập, quá trình di chuyển dân số đã và đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn. Di cư lao động đến đô thị và các khu công nghiệp có nhiều mặt tích cực, góp phần thúc đẩy sự phát triển đa dạng của các lĩnh vực và các ngành nghề, dịch vụ, có ý nghĩa đối với sự tăng trưởng kinh tế; góp phần bổ sung nguồn lực lao động ở nới đến. Những năm gần đây, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa ở nước ta đã thu hút một một lượng lớn lao động nông thôn di cư tìm kiếm cơ hội việc làm và tăng thu nhập đến các tỉnh, thành phố: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh và các khu công nghiệp tập trung.
Để bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động di cư nói chung, bảo hiểm xã hội được coi là một chính sách quan trọng. Thời gian qua, bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trong những trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội. Kể từ khi ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa XII)4 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, diện bao phủ bảo hiểm xã hội nước ta được mở rộng với nhiều đổi mới về phương thức thực hiện, tạo bước chuyển biến của hệ thống. Hiện nay, trong tổng số 54 triệu lao động, có khoảng 13 triệu người đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, bảo hiểm xã hội tự nguyện hiện có quy mô và tỷ lệ tham gia vẫn rất thấp với chưa đầy 1,5 triệu người5.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu thực trạng tiếp cận chế độ bảo hiểm xã hội của lao động di cư trong bối cảnh hiện nay và chỉ ra các nguyên nhân của các rào cản đối với họ trong việc tiếp cận bảo hiểm xã hội là cần thiết nhằm tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng tiếp cận bảo hiểm xã hội, góp phần bảo đảm an sinh xã hội đối một lực lượng lao động có tỷ trọng không nhỏ ở các đô thị lớn.
2. Thực trạng tiếp cận bảo hiểm của lao động di cư phi chính thức
Nhận thức được vai trò của lao động di cư, các nước ngày càng quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, quyền được làm việc và bảo hiểm xã hội đối với bản thân và gia đình người di cư. Đối với tiếp cận bảo hiểm xã hội, tỷ lệ lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội lên tới 97,9% và chỉ có 0,2% đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, còn lại 1,9%, đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện (Đoàn Hiền, 2020)6. Theo số liệu từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam, tính đến năm 2023, số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện vào khoảng 5,6 triệu người. Trong khi đó, thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết, tổng số lao động trong khu vực phi chính thức (bao gồm: nông dân, lao động tự do, người lao động trong các ngành nghề không có hợp đồng chính thức) là khoảng 20 triệu người. Từ đó, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện trong khu vực lao động phi chính thức ước tính chỉ đạt khoảng khoảng 28%. Điều này có nghĩa là chưa đến 1/3 số lao động phi chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, một tỷ lệ còn rất thấp. Cũng theo thống kê tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội trong năm 2023, cả nước có khoảng 18,26 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 39,25% lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện – nhóm lao động phi chính thức chỉ khoảng 1,83 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt 3,92% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động7.
Như vậy, tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện so với lực lượng làm việc khu vực chính thức với khoảng 21 triệu người là rất hạn chế. Lao động làm việc trong khu vực phi chính thức theo thống năm 2023 chiếm khoảng 58,6% tổng số lao động trong nền kinh tế. Đây là một tỷ lệ khá lớn, phản ánh thực tế rằng khu vực phi chính thức vẫn đóng một vai trò quan trọng trong thị trường lao động Việt Nam, tuy nhiên tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội – trụ cột quan trọng của an sinh xã hội với lực lượng này còn thấp so với quy mô và đóng góp cho nền kinh tế.
Một số trường hợp người lao động chấm dứt việc đóng tiền bảo hiểm giữa chừng do khó khăn kinh tế, không thể tiếp tục đóng cho đến khi đủ thời gian nhận chế độ. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, phần lớn lao động di cư chưa đóng bảo hiểm xã hội dẫn đến rất nhiều thiệt thòi cho bản thân và gia đình họ cũng như tạo ra những hệ lụy xã hội khi họ rơi vào hoàn cảnh bệnh tật hoặc không đủ sức khỏe để tham gia lao động.
Có thể thấy, tiếp cận và sử dụng bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội đóng vai trò rất quan trọng nhằm bảo đảm phát triển bền vững kinh tế nói chung và chính sách an sinh xã hội lao động di cư nói riêng. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, cơ hội tiếp cận dịch vụ y tế và bảo hiểm xã hội càng trở nên cấp thiết nhằm bảo đảm sức khỏe thể chất và tinh thần của người di cư. Một số nghiên cứu ở nước ngoài cũng chỉ ra, người lao động di cư cảm thấu lo lắng, trầm cảm chiếm khoảng 28% và căng thẳng tinh thần tự báo cáo chiếm 8% là các phản ứng tâm lý phổ biến cùng với hệ hậu quả sức khỏe tâm thần dưới sắc thái của dịch Covid-19. Tuy nhiên, những khó khăn về tiếp cận thông tin y tế, rào cản ngôn ngữ đã làm hạn chế nhu cầu được chăm sóc (Gany, F., Novo, P., Dobslaw, R., & Leng, J. (2014)8. Điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh cũng như khó khăn hơn trong việc tiếp cận các dịch vụ phòng ngừa và y tế (Toselli, et all (2014)9.
Tiếp cận thông tin về an sinh xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội nói riêng, phần lớn người lao động di cư (36,4% người lao động di cư khu vực chính thức và 87,3% người lao động di cư khu vực phi chính thức) không biết nơi nào có thể cung cấp thông tin và tư vấn về Luật Lao động và bảo hiểm xã hội cho họ (Oxfam, 2015)10. Mạng lưới xã hội khép kín trong ngôi nhà tạm trú đã loại trừ họ một cách không chính thức khỏi các hoạt động xã hội tại nơi cư trú, do vậy họ bị mất đi quyền được thông tin và hỗ trợ từ chính quyền địa phương trong việc tiếp cận các chính sách xã hội, đặc biệt là các chế độ an sinh xã hội và pháp luật lao động. Người di cư phải tự xoay xở tìm hiểu thông tin. Nhóm lao động như lao động giúp việc gia đình may mắn được sự hỗ trợ của hội phụ nữ địa phương và một số tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế quan tâm để tổ chức các buổi sinh hoạt câu lạc bộ nhằm phổ biến các chính sách, pháp luật và giải đáp các vướng mắc của lao động giúp việc gia đình.
Đa số người lao động di cư phi chính thức rất ít có cơ hội tham gia vào các tổ chức đoàn thể và các sinh hoạt cộng đồng ở địa phương nơi đến do thiếu hoặc có mạng lưới địa phương hoạt động không hiệu quả (Rajendran, D., Farquharson, K., & Hewege, C, 2017)11. Mạng lưới di cư đã giúp người lao động di cư phi chính thức tạo thành một tập hợp các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, giúp họ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và khó khăn trong cuộc sống. Các mối quan hệ bạn bè có được từ việc tham gia mạng lưới xã hội đã giúp cho người lao động di cư dễ dàng tiếp cận thị trường lao động và thu nhập được cải thiện (Amuedo-Dorantes, C., & Mundra, K. (2007)12.
3. Rào cản đối với việc tiếp cận chế độ bảo hiểm xã hội của lao động di cư phi chính thức
Nghiên cứu của Mạng lưới hành động vì lao động di cư (M.net, 2022) đã chỉ ra người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện vẫn còn có nhiều rào cản về khả năng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, như: khả năng chi trả, thu nhập không ổn định và vấn đề nhận thức là những nguyên nhân chính dẫn đến lao động phi chính thức không tham gia chương trình bảo hiểm xã hội tự nguyện; lao động khu vực kinh tế phi chính thức nói riêng chưa có thói quen dự phòng cho những rủi ro trong cuộc sống hoặc giai đoạn về già, hết tuổi lao động13. Nếu có tiền tiết kiệm được thì người lao động cũng dành để xây nhà, mua sắm tài sản trong gia đình, lo các công việc, hiếu hỉ… Họ chỉ thực sự thấy cần bảo hiểm khi rủi ro hoặc sự cố xảy ra.
Nhận thức của người lao động chưa cao sẽ là một trong các thách thức lớn trước những quy định mới về khả năng tham gia bảo hiểm xã hội. Người lao động khu vực kinh tế phi chính thức thường thiếu hiểu biết hoặc hiểu chưa đầy đủ về ý nghĩa, nội dung chính sách bảo hiểm xã hội, thậm chí nhầm lẫn với bảo hiểm thương mại khác, do thiếu thông tin, không có thông tin về chính sách an sinh xã hội, chế độ bảo hiểm xã hội14 (Mnet, 2022).
Một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ tham bảo hiểm xã hội của lao động phi chính thức chưa được như mong muốn, đó là những quy định về chính sách chưa đủ sự hấp dẫn, thu hút người tham gia, chế độ hưởng còn hạn chế, đặc biệt là còn thiếu sự linh hoạt và đa dạng về hình thức đóng so với các loại hình bảo hiểm thương mại có tính chất tương tự trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cũng cung cấp cho người lao động các sản phẩm bảo hiểm cho tuổi già, sức khỏe, tai nạn lao động, tử tuất…, với nhiều lựa chọn tùy theo nhu cầu của khách hàng, từ hợp đồng dài hạn, ngắn hạn, bảo hiểm sức khỏe độc lập có thời hạn hơn ngắn hay việc rút một phần giá trị hoàn lại trong hợp đồng bảo hiểm khi khách hàng có nhu cầu. Các sản phẩm bảo hiểm vi mô được thiết kế, cung cấp cho người nghèo, người có thu nhập thấp và những người yếu thế trong xã hội với đặc điểm đơn giản, dễ hiểu, phí bảo hiểm thấp, số tiền bảo hiểm nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu tiết kiệm và bảo vệ trước những rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống. Nếu thu nhập không ổn định, có thể chọn tham gia bảo hiểm với quyền lợi đơn giản, mức phí thấp. Nếu thu nhập thấp hoặc không ổn định, có thể lựa chọn gói bảo hiểm linh hoạt đóng phí (tăng/giảm phí đóng hằng năm). Nếu thu nhập cao, có thể tham gia bảo hiểm với số tiền lớn hơn, hoặc kết hợp tham gia nhiều gói bổ trợ để mở rộng phạm vi bảo vệ (Mnet, 2022)15.
Khó khăn của lao động phi chính thức trong việc tiếp cận các dịch vụ bảo hiểm xã hội còn đến từ những rào cản về hành chính, thủ tục đóng, hưởng lại rất phức tạp, nhiều giấy tờ nên họ ngại tham gia; đội ngũ tư vấn viên, tuyên truyền viên làm công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn hạn chế về số lượng, nghiệp vụ nên chưa giải thích cặn kẽ, tỉ mỉ để người dân hiểu hết về lợi ích khi tham gia bảo hiểm. Đặc biệt, ở những vùng sâu, vùng xa, nhận thức của người dân còn hạn chế nhưng đội ngũ nhân lực của ngành Bảo hiểm chưa vươn tới được.
Các nghiên cứu trên đều chỉ ra những khó khăn, thách thức trong tiếp cận bảo hiểm xã hội của người di cư trong tiếp cận bảo hiểm xã hội. Bên cạnh những rào cản về thu nhập thấp của lao động di cư; nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, nội dung chính sách bảo hiểm xã hội còn chưa cao; chế độ bảo hiểm xã hội còn những hạn chế nhất định chưa hấp dẫn được người lao động.
4. Một số khuyến nghị
Một là, tiếp tục bảo đảm các mục tiêu, định hướng về chính sách an sinh xã hội cho lao động di cư trong đó chú trọng đến bảo hiểm xã hội. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp xã hội và cộng đồng theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để lao động di cư cải thiện các điều kiện sống của họ. Hệ thống an sinh xã hội cơ bản hoàn thành sẽ bảo đảm cho lao động di cư tiếp cận các cơ hội việc làm, giảm nghèo, tham gia bảo hiểm xã hội và y tế, hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin…), từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng so với các đối tượng lao động khác.
Vấn đề lao động di cư trong nước cần được đưa vào trong các chương trình giảm nghèo quốc gia và trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Nhà nước thực hiện những thay đổi phù hợp về chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo đảm tính thống nhất trong các quy định pháp luật về lao động và việc làm, pháp luật về bảo trợ xã hội, pháp luật về y tế, đẩy mạnh các chương trình xóa đói, giảm nghèo. Cần thiết phải loại bỏ các điều kiện về nơi cư trú của khi người lao động di cư tiếp cận với các dịch vụ xã hội thiết yếu nhằm bảo đảm sự tiếp cận công bằng cho họ.
Hai là, Nhà nước cần đẩy mạnh các biện pháp tuyên truyền về các chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế mà người lao động di cư có thể tiếp cận được. Quan trọng hơn là triển khai hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 nhằm phát huy các chế độ được bổ sung nhằm bảo đảm quyền lợi cho lao động di cư đặc biệt lao động nữ.
Ba là, Nhà nước cần thiết lập một cơ chế bảo vệ quyền lợi lao động của người lao động di cư phi chính thức thông qua tổ công tác xã hội ở địa phương hay thiết lập hệ thống dịch vụ công tác xã hội. Nhân viên công tác xã hội sẽ tham vấn, hỗ trợ tâm lý – xã hội, kỹ năng sống và thích nghi với môi trường di cư, kết nối nhu cầu của người lao động di cư với các cơ quan chức năng.
5. Kết luận
Lao động di cư phi chính thức là một phần quan trọng của dân số và góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế nhưng lại là nhóm nghèo đa chiều với những đặc thù riêng về sự yếu thế của họ, Nhà nước cần thiết kế một chính sách tổng thể cho tương tự như cho các nhóm yếu thế khác như người dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em. Chính sách bảo hiểm xã hội cần nằm trong tổng thể chính sách an sinh xã hội đối với lao động di cư cần được hợp nhất, lồng ghép vào trong các chính sách phát triển như một bộ phận cấu thành. Điều này cho phép huy động các nguồn lực được phân bổ thường xuyên vào việc bảo đảm các vấn đề cho người lao động di cư một cách bền vững.
Quy định về hộ khẩu hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của công dân còn nhiều thủ tục hành chính đòi hỏi phải có hộ khẩu, gây trở ngại cho việc tiếp cận các chính sách an sinh xã hội của lao động di cư phi chính thức. Việc tính giá điện, giá nước, các thủ tục về nhà đất, vay vốn, các chính sách hỗ trợ hộ nghèo…, dựa trên hộ khẩu là những ví dụ rõ ràng về các rào cản tiếp cận các chế độ an sinh. Hệ thống pháp luật lao động hiện hành hầu như chưa bao phủ tới đối tượng lao động phi chính thức, ngoại trừ nhóm lao động giúp việc nhà, trong khi việc làm bấp bênh, thu nhập không ổn định, không có hợp đồng lao động và các rủi ro như ốm đau, tai nạn, không có nơi ở an toàn nhất là trong bối cảnh Covid-19 kéo dài có thể tác động ngày càng nghiêm trọng đến sinh kế của họ.
Thiếu hụt về thông tin chính sách là rào cản lớn nhất có tác động đến mức độ tiếp cận bảo hiểm xã hội của lao động di cư. Chính vì thiếu thông tin nên người lao động di cư thiếu nhận thức quyền và lợi ích của mình cũng như những tổ chức bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của mình. Mặt khác, việc thiếu thông tin còn dẫn đến hạn chế của người lao động di cư trong thực hiện nghĩa vụ công dân tại nơi đang sinh sống.
Cần tổ chức thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội thống nhất giữa các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương. Đặc biệt công tác tuyên truyền về các chế độ bảo hiểm xã hội cần sâu rộng, nội dung đầy đủ, đa dạng các hình thức phù hợp với nhóm đối tượng đặc thù nhằm nâng cao nhận thức một đầy đủ để người lao động khu vực phi chính thưc hiểu rõ về lợi ích của bảo hiểm xã hội và có nhu cầu tham gia thực sự bền vững.
Chú thích:
1. Zikic, J., Bonache, J., & Cerdin, J. (2010). Crossing national boundaries: A typology of qualified immigrants’ career orientations. Journal of Organizational Behaviour, 31(5), pp. 681.
2. Sargeant, M., & Tucker, E. (2009). Layers of vulnerability in occupational safety and health formigrant workers: Case studies from Canada and the UK. Policy and Practice in Health and Safety, 7(2), 51 – 73, pp. 71.
3. McGovern, P., Smeaton, D., & Hill, S. (2004). Bad jobs in Britain: Nonstandard employment and job quality. Work and Occupations, 31(2), 225 – 249. https://doi.org/10.1177/0730888404263900
4. Ban Chấp hành Trung ương (2018). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
5. Một số vấn đề về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tình hình mới.https://tuyengiao.vn/mot-so-van-de-ve-phat-trien-xa-hoi-va-quan-ly-phat-trien-xa-hoi-trong-tinh-hinh-moi-157349
6. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm cho lao động nộng thôn di cư hòa nhập xã hội thành thị, chuyển đổi nghề nghiệp ổn định và bền vững.https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/820468/xay-dung-he-thong-an-sinh-xa-hoi%2C-bao-dam-cho-lao-dong-nong-thon-di-cu-hoa-nhap-xa-hoi-thanh-thi%2C-chuyen-doi-nghe-nghiep%C2%A0on-dinh-va-ben-vung.aspx
7. 10 kết quả nổi bật của ngành BHXH Việt Nam năm 2023.https://baohiemxahoi.gov.vn/tintuc/Pages/hoat-dong-he-thong-bao-hiem-xa-hoi.aspx?ItemID=22330&CateID=0
8. Gany, F., Novo, P., Dobslaw, R., & Leng, J. (2014). Urban occupational health in the Mexican and Latino/Latina immigrant population: A literature review. Journal of immigrant and minority health, 16(5), pp. 850.
9. Toselli, S., Gualdi-Russo, E., Marzouk, D., Sundquist, J., & Sundquist, K. (2014). Psychosocial health among immigrants in central and southern Europe. The European Journal of Public Health, 24(suppl_1), pp. 26 – 30.
10. Oxfam Việt Nam (2015). Nghiên cứu Rào cản pháp luật và thực tiễn đối với người lao động di cư trong tiếp cận an sinh xã hội.
11. Rajendran, D., Farquharson, K., & Hewege, C. (2017). Workplace integration: the lived experiences of highly skilled migrants in Australia. Equality, Diversity and Inclusion: An International Journal, pp. 446.
12. Amuedo-Dorantes, C., & Mundra, K. (2007). Social networks and their impact on the earnings of Mexican migrants. Demography, 44(4), pp. 850.
13, 14, 15. Mạng lưới hành động vì lao động di cư (M.net) (2022). Nghiên cứu nhu cầu, khả năng tham gia và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tham gia của bảo hiểm xã hội tự nguyện của lao động ở khu vực phi chính thức tại Việt Nam.