TS. Nguyễn Hữu Tuấn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
TS. Vũ Văn Long
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Đoàn kết là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu cơ sở, nội dung và yêu cầu của đoàn kết “rộng rãi, từ trong ra ngoài” theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XIII) là nội dung quan trọng nhằm củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, tạo thế và lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Từ khóa: Đại đoàn kết, đoàn kết rộng rãi, đoàn kết từ trong ra ngoài.
1. Đặt vấn đề
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) ngày 24/11/2023 ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết xác định các quan điểm, thể hiện tính hệ thống, đầy đủ, toàn diện của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới; trong đó, nhấn mạnh: “là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới”1. Như vậy, theo cách trình bày quan điểm thể hiện nội hàm và trình tự là đoàn kết: “rộng rãi, từ trong ra ngoài”. Đây là quan điểm nhất quán, thể hiện tính đúng đắn cả về lý luận và thực tiễn của Đảng; là cơ sở, định hướng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới.
2. Cơ sở xác định đoàn kết “rộng rãi, từ trong ra ngoài”
(1) Lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
Trong khi khẳng định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, để hoàn thành sứ mệnh đó là giai cấp công nhân phải thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Theo V.I. Lênin, để hoàn thành sứ mệnh thế giới của mình, giai cấp vô sản nhất thiết phải tổ chức ra chính đảng – đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp. Đội tiên phong của giai cấp vô sản không chỉ tập hợp sự đoàn kết và lãnh đạo giai cấp mình mà còn phải tập hợp, đoàn kết tất cả các lực lượng trong cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc. Đây là nguyên tắc bắt buộc, là điều kiện tiên quyết để đi tới chiến thắng. Trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I. Lênin chỉ rõ: “Chỉ có một mình đội tiền phong thôi thì không thể thắng nổi. Ném một mình đội tiền phong vào một cuộc chiến đấu quyết định… thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa”2.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức và đề cao sức mạnh của đoàn kết nên cả cuộc đời Người luôn chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để tạo thành sức mạnh thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Năm 1951, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta gặp những điều kiện cực kỳ gay go, nhưng trong Đại hội hợp nhất Việt Minh – Liên Việt, Người khẳng định: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”3. Luận điểm nổi tiếng này của Người trở thành tư tưởng chỉ đạo chiến lược, lời hiệu triệu, niềm tin của Nhân dân vào sức mạnh của đoàn kết.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thì chưa đủ; cách mạng muốn thành công phải đoàn kết “rộng rãi, từ trong ra ngoài”. Đoàn kết rộng rãi theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đoàn kết trong nước, đoàn kết quốc tế. Người chủ trương: “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ Nhân dân thì ta đoàn kết với họ”4. Đồng thời, theo tư tưởng đoàn kết “từ trong ra ngoài” trong Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, song phải dựa vào sức mình là chính, Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”5.
(2) Thực tiễn quá trình lãnh đạo xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quán triệt và vận dụng sáng tạo lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đoàn kết nhằm tập hợp “rộng rãi, từ trong ra ngoài” lực lượng cách mạng có thể tập hợp, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trong mọi thời kỳ cách mạng.
Cương lĩnh đầu tiên được Hội nghị thành lập Đảng thông qua (tháng 2/1930), xác định lực lượng cách mạng: trên cơ sở lấy giai cấp công nhân, giai cấp nông dân là lực lượng chính, do giai cấp công nhân lãnh đạo, mở rộng đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời, Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954), Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn trong nước và quốc tế, gắn liền yếu tố dân tộc với yếu tố thời đại.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975), Đảng đề ra đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng ở hai miền. Để đoàn kết toàn dân, Đảng chủ trương lập ở mỗi miền một mặt trận. Đoàn kết toàn dân với một quyết tâm Nam – Bắc một nhà, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược; đồng thời, đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước (1986 đến nay), đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển đất nước, là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau gần 40 năm đổi mới bắt nguồn từ nhiều nhân tố trong đó có sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đánh giá: “Truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường, phát huy, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”6.
3. Nội dung đoàn kết “rộng rãi, từ trong ra ngoài”
Nội hàm của đoàn kết là rộng rãi, bao gồm: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết trong dân và đoàn kết quốc tế. Đoàn kết trong Đảng, Đảng xác định đoàn kết trong mọi tổ chức và toàn thể đảng viên của Đảng mà trước hết mà đoàn kết chặt chẽ trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương thành một thống nhất ý chí và hành động. Đoàn kết trong dân là đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước. Đoàn kết quốc tế là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trình tự của đoàn kết là: từ đoàn kết trong Đảng đến đoàn kết trong dân và đoàn kết quốc tế. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội giữ vai trò nòng cốt chính trị trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Yêu cầu, giải pháp thực hiện đoàn kết “rộng rãi, từ trong ra ngoài”
Đối với đoàn kết trong Đảng. Tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng làm cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thường xuyên đổi mới phương thức, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu tình hình mới; giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong giữ gìn và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tiếp tục hoàn thiện và cụ thể hoá cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” gắn với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; sâu sát cơ sở, nêu cao ý thức phục vụ và gắn bó mật thiết với Nhân dân, luôn hành động vì lợi ích và hạnh phúc của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để giám sát và đánh giá cán bộ; lấy kết quả sản phẩm công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của Nhân dân làm tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên.
Đối với đoàn kết toàn dân. Tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn mới; phát huy vai trò của các giai tầng xã hội; khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo của mỗi người Việt Nam góp phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh về số lượng và chất lượng; có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, thích ứng với sản xuất công nghiệp hiện đại; có bản lĩnh chính trị vững vàng, giác ngộ giai cấp, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc. Phát huy vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, văn minh, tự chủ, tự lực, tự cường và có ý chí, khát vọng vươn lên; có trình độ và năng lực tổ chức sản xuất tiên tiến, ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; có trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới và công nghiệp hoá, đô thị hoá nông thôn; được thụ hưởng những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, từng bước tiếp cận các dịch vụ của đô thị.
Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có cơ cấu hợp lý, chất lượng cao; là nhân tố quan trọng phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; có vai trò quan trọng trong liên minh với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng trí thức Việt Nam cả trong và ngoài nước. Phát huy vai trò tư vấn, phản biện, tham mưu chủ trương, chính sách của đội ngũ trí thức.
Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng; có trí tuệ, năng lực quản lý, năng động, sáng tạo, có đạo đức và văn hoá kinh doanh, tinh thần dân tộc, trách nhiệm xã hội, đóng góp tích cực vào xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn để doanh nhân phát triển.
Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, ý chí, khát vọng cống hiến, nêu cao trách nhiệm đối với đất nước, xã hội. Xây dựng môi trường, điều kiện học tập, rèn luyện, lao động, giải trí để thế hệ trẻ phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hoà cả về trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ. Xây dựng các phong trào thanh niên thi đua học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp, làm chủ kiến thức khoa học – công nghệ hiện đại, xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chăm lo xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới đồng thời phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của phụ nữ; tích cực xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ; đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng, cơ hội tiếp cận, thụ hưởng các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, khu vực miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn.
Tăng cường vai trò của cựu chiến binh trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tích cực giúp nhau làm kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống, làm giàu hợp pháp góp phần xây dựng, phát triển đất nước.
Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, phát huy nội lực, vươn lên cùng phát triển. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định, thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế – xã hội, vươn lên thoát nghèo và giảm nghèo bền vững. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí, giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; vận động xoá bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn hoá mới; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, người có uy tín trong vùng dân tộc thiểu số.
Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo,chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đồng hành cùng dân tộc, tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chính quyền các cấp phát động. Bảo đảm để các tổ chức tôn giáo hoạt động bình đẳng theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận; quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ giải quyết các nhu cầu chính đáng của quần chúng tín đồ trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh. Tôn trọng, khuyến khích phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, hoà nhập xã hội, đóng góp tích cực cho nước sở tại; tăng cường bảo hộ công dân. Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Đẩy mạnh vận động người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là thế hệ trẻ, gắn bó với quê hương, trở thành cầu nối giữa Việt Nam với các nước. Kiên trì tuyên truyền, vận động, thuyết phục những kiều bào còn định kiến để củng cố, tăng cường niềm tin, yên tâm hướng về Tổ quốc, có nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia – dân tộc. Thu hút, tạo điều kiện để trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đối với đoàn kết quốc tế. Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, phân tích khách quan, khoa học tình hình thế giới, trong nước để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Kiên định mục tiêu, con đường xã hội chủ nghĩa, không bi quan giao động trước những khó khăn, tác động từ bên ngoài, chống giáo điều, bảo thủ. Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ đối ngoại, chống tuyệt đối hóa một chiều, phạm sai lầm, tạo kẽ hở để các thế lực thù địch chống phá. Trong hợp tác làm ăn với nước ngoài phải có lập trường, có sự đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Đấu tranh phải mềm dẻo, linh hoạt, đi đến tạo môi trường hòa bình, ổn định, tin cậy để hợp tác lâu dài; tranh chủ quan nôn nóng.
Giữ vững độc lập, tự chủ mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, thường xuyên đấu tranh chống tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, dân tộc nước lớn. Độc lập tự chủ trong đề ra đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phát huy cao độ nội lực, không ỷ lại, hoặc học tập kinh nghiệm nước ngoài máy móc. Độc lập tự chủ về đường lối là cơ sở để bảo đảm độc lập tự chủ trong chỉ đạo thực tiễn. Tăng cường xây dựng tiềm lực, sức mạnh quốc gia về mọi mặt cả tinh thần và vật chất. Đây là cơ sở tốt cho chúng ta khắc phục sức ép từ bên ngoài gây bất lợi cho đất nước.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường phải gắn liền với mở rộng đoàn kết hợp tác quốc tế.Độc lập tự chủ, tự lực tự cường và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, làm điều kiện cho nhau. Độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa khép kín, biệt lập với bên ngoài, tự cô lập mình. Đặc biệt trong xu thế hội nhập, không một nước nào có thể tách biệt khỏi các quan hệ quốc tế mà có thể phát triển được. Song trong quá trình mở rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn bản sắc truyền thống dân tộc, đồng thời tiếp thu những tinh hoa trí tuệ, những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của nhân loại.
5. Kết luận
Đoàn kết là truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Truyền thống ấy từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với quan điểm đúng đắn đã không ngừng củng cố, tăng cường lên tầm cao mới, giành những thắng lợi to lớn. Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang đứng trước cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt quan điểm đoàn kết “rộng rãi, từ trong ra ngoài” do Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) ngày 24/11/2023 xác định, nhằm tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chú thích:
1, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2023). Văn kiện hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 138, 135.
2. V.I Lênin toàn tập (1977). Tập 4. H. NXB Tiến bộ Mátxcơva, tr. 97.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 120.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 224.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 445.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2023). Văn kiện hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Nguyễn Phú Trọng (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Nguyễn Phú Trọng (2023). Phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Đoàn kết trong Đảng – biểu hiện sâu sắc nhất của đại đoàn kết dân tộc trong bối cảnh hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/06/17/doan-ket-trong-dang-bieu-hien-sau-sac-nhat-cua-dai-doan-ket-dan-toc-trong-boi-canh-hien-nay.