Vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm

Nguyễn Thanh Ngân Hạ
Trường Cao đẳng Kỹ thuật – Du lịch Sài Gòn

(Quanlynhanuoc.vn) – Ngô Thì Nhậm (1746 – 1803) được ví như cây đại thụ tỏa bóng lớn trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam với những đóng góp quan trọng trong thế kỷ XVIII – XIX. Ông không chỉ là một nhà tư tưởng triết học, chính trị mà còn là nhà quân sự đại tài của dân tộc Việt Nam. Sống trong thời đại lịch sử – xã hội đầy biến động, Ngô Thì Nhậm đã nỗ lực phục vụ triều đại Tây Sơn hướng đến độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Chính vì thế, nhân cách, tài năng và những đóng góp của Ngô Thì Nhậm đã ảnh hưởng tích cực tới tình hình chính trị – xã hội đương thời và được lịch sử ghi nhận. Vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm thể hiện tầm khái quát sắc sảo từ những lý luận truyền thống cũng như dựa trên thực tiễn phong phú đương thời. Vận dụng tư tưởng này sẽ góp phần củng cố những quan điểm của chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Ngô Thì Nhậm; Tư tưởng triết học; vấn đề con người; thời phong kiến.

1. Đặt vấn đề

Trong suốt chiều dài lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, vấn đề con người được rất nhiều nhà tư tưởng quan tâm, trong đó Ngô Thì Nhậm với tư tưởng đề cao con người ở những quan điểm trọng dân, thương dân, cùng với đó là lý luận về nguồn gốc con người, vai trò của điều kiện kinh tế – xã hội và giáo dục đối với sự hình thành bản tính con người. Nhận thức được quy luật của sự phát triển xã hội, ông đã đưa ra quan điểm giáo dục con người, đạo làm người và chính sách trọng dụng nhân tài chính là nền tảng của công cuộc dựng nước. Đứng trên bình diện nghiên cứu triết học, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm có ý nghĩa nhất định đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển con người ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

2. Nội dung cơ bản vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm

Tuy rằng chưa được tiếp thu các lý luận tiến bộ về con người nhưng với tài trí hơn người, trong hoàn cảnh điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX, Ngô Thì Nhậm đã thấu hiểu rất rõ về cuộc đời nhiễu nhương, đồng cảm với những thân phận và bản chất con người đương thời. Cùng với truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống khoa cử của gia đình chính là một trong những yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến quan điểm về vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm. Đồng thời, việc tiếp thu tư tưởng tam giáo đồng nguyên có ảnh hưởng lớn đến nhận thức, phẩm chất và cách đối nhân xử thế của Ngô Thì Nhậm trong suốt con đường quan lộ của ông. Các tác phẩm mà Ngô Thì Nhậm để lại cho đời phần lớn đề cập đến những vấn đề liên quan đến chính trị, xã hội, tư tưởng, văn hóa và đạo đức mà không bàn đến vấn đề con người, nhưng vấn đề con người là chủ đề xuyên suốt trong toàn bộ các tác phẩm của ông. Bằng tài năng, tâm huyết, ông đã để lại cho đời tư tưởng triết học mang tính thực tiễn sâu sắc, nổi bật là tư tưởng bàn về vấn đề con người thông qua lý giải về nguồn gốc, bản tính, vai trò và vị trí con người, để từ đó đưa ra phương pháp giáo dục và đạo làm người để xây dựng nhân tài cống hiến cho quê hương, đất nước.

Một là, về nguồn gốc và bản tính con người.

Xuất phát từ quan điểm trong Kinh Dịch: “Trời và người cùng chung một lý” (“lý” ở đây được hiểu như là quy luật vận hành tự nhiên của trời đất và muôn vật). Ngô Thì Nhậm đã nhận định khí chính là cái gốc của vạn vật, nhờ có  mà khí mới chuyển hóa thành sự vật phong phú, đa dạng khác nhau. Sự xuất hiện của con người là do khí trời sinh ra, hình thể con người chính là hình và khí tạo nên. Ngô Thì Nhậm chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo thiền tông trong lý giải về lẽ sinh diệt của con người. Mọi sự vật sinh ra, đặt ở vị trí nào, trong hoàn cảnh nào đều thuộc về cái lý sẵn có và bị cái lý chi phối. Khi nội tâm con người thông suốt, sáng rõ tự nhiên sẽ nhận thức được quy luật sinh, diệt là một quy luật tất yếu. Ngô Thì Nhậm bàn sâu đến của cấu tạo con người là sự kết hợp giữa phần nguyên tinh tức “tinh thần” và phần nguyên khí tức “thể xác”, thân thể rồi sẽ biến mất nhưng tinh thần ẩn bên trong thân thể sẽ không mất đi, nó tồn tại vĩnh viễn, vì vậy nên giữ gìn tinh thần minh thanh khiết. Ngô Thì Nhậm nhận thấy do điều kiện ăn ở khác nhau mà trông mỗi người khác nhau, quan hệ xã hội cũng khác nhau nên ứng xử cũng khác nhau.

Ngô Thì Nhậm cho rằng bản tính của con người bao gồm “thiên tính” và “nhân tính”. Thiên tính là bản chất của mỗi người, mọi sự đều do tạo hóa sắp đặt, “tạo hóa sinh ra ta”1. Cuộc đời của mỗi người thành hay bại, sướng hay khổ là điềm của trời ban, là do cái đức của tạo hóa, cái thiên mệnh của mỗi người, dựa vào phước đức của tổ tiên. Chịu ảnh hưởng sâu sắc từ giáo lý Phật giáo thiền tông, ông quan niệm bản tính con người không nằm ngoài chữ “dục”. Bản tính dục là ngọn nguồn của khổ đau. Ngô Thì Nhậm chủ trương xóa mọi dục vọng để tâm tuyệt đối trong sáng và thân an nhàn, bằng cách con người phải từ bỏ dục vọng (diệt dục), mà trước tiên là trong ý nghĩ của chính mình. Nhân tính là cái riêng của mỗi người, nhân tính sẽ thay đổi bởi yếu tố môi trường do đó, nhân tính phải được mài dũa bởi giáo dục. Cũng như Khổng Tử, Ngô Thì Nhậm đồng tình “nhân chi sơ, tính bổn thiện”, con người sinh ra đều sẽ có bản tính thiện, nhưng bản tính thiện ấy có thay đổi hay không thay đổi phụ thuộc vào hoàn cảnh sống. Vậy nên, cần có một xã hội tốt đẹp và những mối quan hệ lành mạnh để tạo nên những con người tốt đẹp. Ông nhấn mạnh dùng “đạo lý” để chế ngự con người, dùng “lẽ phải” để thu phục lòng người. Giáo dục là cách giúp cho bản chất con người trở nên gần nhau, làm cho quan hệ xã hội trở nên hài hòa.

Hai là, về vai trò và vị trí con người.

Con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm chính là Nhân dân. Trong giai đoạn thế kỷ XVIII nhiễu nhương, biến đổi khôn lường, tỏ lòng thương xót cảnh điêu linh của người dân, ông dâng nhiều kế sách hay trong đạo trị nước, sử dụng hiền tài, an dân, bảo vệ đất nước… Theo Ngô Thì Nhậm: “Phàm những việc quan trọng liên quan đến gốc của nền chính trị và tính mạng của dân, sai một ly đi một dặm”2. Từ tình cảm thương dân, lo cho Nhân dân, các kế sách của ông luôn hướng đến vì cuộc sống tốt đẹp của người dân. Tuy nhiên, trước những u nhọt khó xóa bỏ được trong lòng xã hội phong kiến Đại Việt, những mẫu thuẫn nội bộ của các tầng lớp, các phe phái tranh giành quyền lực và tình trạng bóc lột ngườidân thì các kế sách của ông cũng không thể thay đổi được chế độ phong kiến đương thời. Lòng thương dân như con của Ngô Thì Nhậm như ánh đèn lóe sáng trong đêm tối, sớm vụt tắt bởi sự kiềm kẹp của chế độ phong kiến chuyên quyền. Sở dĩ thiên hạ loạn lạc đều là do con người mà ra, trong đó lòng dân là chìa khóa then chốt xây dựng đất nước vững bền, do đó, Ngô Thì Nhậm đề cao tinh thần trung quân ái quốc, trách nhiệm sĩ phu trước thời cuộc, có thái độ đưa xã tắc từ loạn lạc sang ổn định. Ngô Thì Nhậm chủ trương giáo dục quan lại, hướng họ tới hình mẫu vị quan vừa có tài năng, vừa có đức hạnh.

Đạo trị nước chỉ thực hiện tốt khi có được lòng dân, không thể điều hành đất nước chỉ bằng những bộ luật hà khắc như phái pháp gia đưa ra, dễ đánh mất lòng dân. Tuy vậy, cũng không thể điều hành đất nước chỉ bằng đức trị của Khổng Tử, dễ làm thiên hạ rối loạn khó quản lý, người dân khinh thường luật pháp, quan lại không sợ uy quyền của vua mà tự ý làm càn. Vì thế, ông cho rằng phải “làm cho dân dần đến điều nhân, cọ sát với điều nghĩa, khiến dân trở thành lương thiện mà không tự biết, như thế “nắm giữ đất nước” (trì quốc). Dạy bảo bằng chính sự, nhất tề bằng hình phạt, khiến dân sợ luật pháp mà không dám phạm, như thế gọi là “điều hành đất nước” (trị quốc). Điều hành (trị) chỉ là điều hành cái bên ngoài, không điều hành thì loạn, đó là cái điều hành của bậc bá đạo. Nắm giữ (trì) đất nước là phải nắm giữ cái cán, làm cho dân tự nhiên hướng thiện, không làm điều gì trái phép, đó là công lao của bậc thế giả”3. Ngô Thì Nhậm chủ trương phải biết kết hợp pháp trị và đức trị trong việc điều hành và xây dựng đất nước, vừa nhu vừa cương thì thiên hạ mới ổn định. Ông coi kinh tế là nền tảng của sự phát triển, kinh tế khủng hoảng thì lòng dân không yên, bỏ đi tứ xứ tìm nơi để sống do vậy phát triển kinh tế là vấn đề quan trọng. Ông kêu gọi triều đình trọng dụng nhân tài, thay đám quan lại thiếu tài,thiếu đức bằng những người có tài năng, đức hạnh thì đất nước sẽ phồn thịnh.

Thứ ba, về đạo làm người.

Chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho gia nên Ngô Thì Nhậm cho rằng cốt lõi của đạo làm người là “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” phải đúng với những cương thường đạo lý. Theo ông, đạo làm người trong mối quan hệ với non sông, xã tắc phải đề cao chữ trung, ngụ ý làm người là phải trung thành với đất nước, với vua; cần phải sống đúng mực, sống đúng với cương thường đạo lý, không trái với lương tâm. “Đem trung hiếu làm khuôn phép cho gia đình, nghiệp lớn rực rỡ; Yên vui kéo dài niềm phúc lộc, điềm tốt trùng trùng”4. Vai trò con người là phải làm được nghiệp lớn, đó là phò vua, giúp nước, làm tốt sẽ tích đức cho bản thân và thế hệ con cháu, gia đình và dòng họ được hưởng tiếng thơm muôn đời. Con người phải sống vì chữ nhân, là người trọng nghĩa tình mới là bậc quân tử. Đạo làm người trong mối quan hệ với gia đình được thể hiện qua các mối quan hệ như: mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, theo tư tưởng chính danh của Nho gia, là cha thì phải đúng là cha, là con thì phải đúng là con, cha phải mẫu mực, hiền từ, luôn có tinh thần tu dưỡng đạo đức, nhân cách để làm gương cho con. Công đức của ông cha là cốt ở đức hạnh tốt để lại cho con cháu về sau. Về phận làm con phải hiếu kính với cha mẹ, “hiếu” là tiêu chí đứng đầu để đánh giá phẩm chất đạo đức con người. Trong quan hệ vợ chồng, đạo vợ chồng là đầu mối của nhân luân, dựng được nền móng thì gốc rễ mới bền chặt. Chồng là cương lĩnh của vợ, có toàn quyền quyết định, còn vợ có nghĩa vụ phải theo chồng, tức là hoàn toàn phụ thuộc. Tiếp thu tư tưởng Nho giáo, Ngô Thì Nhậm đưa ra trách nhiệm của vợ và chồng, không đơn giản là mối quan hệ giữa hai người mà còn ảnh hưởng đến cả tình cảm và trách nhiệm xã hội. Trong quan hệ anh em, tình cảm anh em phải dựa trên lòng trung hậu. Quan hệ anh em là một mối quan hệ “giềng mối” của xã hội và truyền thống của gia đình giữ gìn được hay không phụ thuộc vào mối quan hệ anh em.

Thứ tư, về giáo dục con người.

Bàn về vai trò của giáo dục con người, Ngô Thì Nhậm nhận định con người chỉ có thể nhận thức được vai trò cá nhân trong xã hội khi được giáo dục đầy đủ về hai mặt tài trí và đức hạnh. Giáo dục chính là điều kiện cần thiết để con người lĩnh hội được những giá trị đích thực của cuộc sống. Bàn về mục đích của giáo dục con người, Ngô Thì Nhậm nhấn mạnh giáo dục là đào tạo những người có tài và đức hạnh phục vụ đất nước. Ông đưa ra cách khích lệ người học bằng vật chất (cấp bổng lộc) và lợi ích tinh thần (sự hiển vinh bản thân và gia đình), người học phải được chăm lo ổn định về mặt kinh tế, từ đó mới ra sức học tập phục vụ lợi ích quốc gia. Giáo dục và học hỏi chính là một trong những phương pháp quan trọng, “muốn kiến quốc phải coi dạy học làm đầu, muốn đất nước được trị bình phải tuyển chọn nhân tài làm gốc”5Bàn về phương pháp giáo dục con người, Ngô Thì Nhậm nhận định nền giáo dục của một triều đại không chỉ giáo dục văn mà phải giáo dục cả hạnh, biểu dương những người có đức hạnh tốt và phế truất những người kiêu bạc, chọn lọc kỹ những viên quan giảng dạy ở Quốc học để làm gương cho học trò noi theo. Thực trạng suy thoái của xã hội đương thời là do việc học không được chú trọng, các khoa thi bỏ dần, người thi cử không nhận thức được vai trò và sứ mệnh của bản thân nên đã gây ra tình trạng lập danh không đúng người làm cho hiền tài của triều đình suy kiệt. Ông chủ trương chọn người ưu tú nhắc người, biết mình, tình nguyện tham gia phép thi “tứ trường”, củng cố và khích lệ tinh thần dân tộc, sự cộng tác của các sĩ phu đã mang tài, đức ra giúp nước.

3. Đặc điểm của vấn đề con người trong tư tưởng Ngô Thì Nhậm

Thứ nhất, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm là sự kế thừa và tiếp biến tư tưởng về con người trong các học thuyết Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trên nền tảng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Ngô Thì Nhậm chịu ảnh hưởng của Nho giáo với các phạm trù lý – khí, tư tưởng thiên mệnh, trung dung, tam cương ngũ thường, trung quân ái quốc,… những tư tưởng của ông được khai phóng, mang nhiều nội dung vượt lên trên khuôn khổ Nho giáo. Về Phật giáo, ông chịu ảnh hưởng từ tư tưởng vô ngã, vô thường, nhân quả, nghiệp báo và triết lý nhân sinh từ, bi, hỷ, xả, phương pháp tu tập, thiền định,… Đây là những nội dung gần gũi, phù hợp với triết lý nhân sinh, cũng như phong tục tập quán của người Việt Nam. Về Đạo giáo, Ngô Thì Nhậm chịu ảnh hưởng trong quan niệm thanh tịnh, vô vi, tư tưởng này phù hợp với tinh thần sống thuận theo lẽ tự nhiên của người Việt Nam. Trên con đường quan lộ, ông đã cống hiến sức lực, tài trí và tấm lòng nhiệt thành với người dân, quê hương, đất nước, không màng danh lợi, vinh hoa, phú quý. Vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm ra đời, một mặt góp phần thống nhất các hệ thống tư tưởng trong xã hội, mặt khác thể hiện tinh thần trọng dân, yêu dân, đề cao tinh thần độc lập dân tộc bảo vệ lợi ích của triều đại Tây Sơn và giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội đương thời.

Thứ hai, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm mang tính nhân văn sâu sắc với những luận điểm đề cao con người, vị trí, vai trò con người và chủ trương giáo dục con người, xây dựng những giá trị tốt đẹp trong các mối quan hệ xã hội.

Ngô Thì Nhậm đề cao tinh thần trung quân ái quốc, trách nhiệm của sĩ phu trước thời cuộc, có thái độ đưa xã tắc từ loạn lạc sang ổn định. Ngô Thì Nhậm coi người dân là trung tâm của sự phát triển đất nước, muốn dựng nước trước hết phải có lòng dân, muốn trị nước phải kết hợp đức trị và pháp trị, vừa rắn vừa mềm mới được lòng dân. Bên cạnh đó, muốn đất nước phát triển cần phải chú trọng kinh tế, phải biết trọng dụng nhân tài. Ngô Thì Nhậm đã có những nhận định đúng đắn, hợp với quy luật phát triển của xã hội khi xác định được vai trò cơ bản của con người trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, mối quan hệ cha mẹ và con cái, chồng vợ, anh em, định hướng xây dựng cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Thứ ba, về vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm phản ánh và chịu sự quy định của điều kiện lịch sử – xã hội đương thời.

Vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm dù có những điểm tiến bộ, tích cực, đáp ứng yêu cầu của lịch sử nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định, do chịu sự quy định của chế độ chính trị – xã hội và giai tầng ông xuất thân. Bàn về nguồn gốc con người, Ngô Thì Nhậm đã kế thừa phạm trù lý trong tư tưởng của Tống Nho để giải thích về nguồn gốc con người nên cái lý của ông cứng nhắc, cực đoan, đây là một điểm hạn chế mang tính lịch sử – xã hội. Về bản tính con người, mặc dù tính thiện do trời phú (thiên tính) hoặc thừa nhận tính tự nhiên theo nghĩa bản năng ham muốn của con người (nhân dục) nhưng lại chưa khẳng định bản tính con người là sản phẩm do thời đại họ đang sống quy định. Ngô Thì Nhậm đã dành rất nhiều luận giải sâu sắc về vai trò và trách nhiệm của con người trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa người thống trị và người bị trị, mối quan hệ của các thành viên trong gia đình nhưng ông lại chưa nhìn thấy được tính chất của các mối quan hệ này đều không tránh khỏi sự bất bình đẳng. Tư tưởng giáo dục con người chưa vượt ra khỏi đường lối giáo dục theo tinh thần Nho giáo phong kiến bởi nội dung giáo dục vẫn còn thiên về đạo làm người, coi trọng nền đạo đức xã hội xưa cũ.

4. Ý nghĩa lịch sử của vấn đề con người trong tư tưởng Ngô Thì Nhậm

(1) Ý nghĩa lý luận.

Thứ nhất, vấn đề con người trong tư tưởng Ngô Thì Nhậm góp phần làm sâu sắc và phong phú hơn lý luận về con người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Ngô Thì Nhậm vận dụng tư tưởng trong Kinh Dịch để khẳng định con người sinh ra bởi cái tinh túy của tự nhiên đó là  và nhờ có khí nên hình dáng con người mới được hoàn thiện. Quan điểm sống- chết theo Ngô Thì Nhậm là quy luật tự nhiên, con người cần phải sống xứng đáng với bổn phận của mình. Ngô Thì Nhậm tiếp cận bản tính con người dựa trên thiên tính tự nhiên (do trời phú), cốt lõi là ham muốn về nhu cầu vật chất và nhu cầu sinh lý của mỗi người, khẳng định bản tính con người không trường tồn bất biến, luôn thay đổi dựa vào hoàn cảnh sống và các mối quan hệ xã hội khác nhau. Ngô Thì Nhậm nhận thấy sự hưng thịnh của một triều đại dựa vào cuộc sống ấm no hạnh phúc, sự êm ấm và thuận hòa trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, giữa tầng lớp thống trị với các giai tầng bị trị, bản chất các mối quan hệ cơ bản của con người như trong gia đình và xã hội,… Ngô Thì Nhậm chủ trương kết hợp giáo dục với đạo trị nước, đề cao tinh thần trung quân ái quốc, trách nhiệm của sĩ phu trước thời cuộc, trọng dụng hiền tài trong công cuộc kiến thiết đất nước.

Thứ hai, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm với những kiến giải sâu sắc đã đóng góp thêm một cái nhìn mới mẻ, tích cực về con người, được các nhà tư tưởng về sau nghiên cứu và phát triển ở một tầm cao mới.

Ngô Thì Nhậm đặt con người vào các mối quan hệ cụ thể để nhận định vai trò, trách nhiệm và bổn phận con người, từ đó đưa ra phương pháp rèn luyện bản tính theo chiều hướng tốt đẹp. Ông khẳng định điều kiện kinh tế và giáo dục ảnh hưởng sâu sắc đến hình thành và thay đổi bản tính con người. Nhận thức được tính quy luật trong sự phát triển của xã hội, Ngô Thì Nhậm đưa ra những tư tưởng mang tính chiến lược về giáo dục và trọng dụng nhân tài, lấy con người làm trung tâm, coi đạo làm người làm nền tảng của xã hội. Tư tưởng giáo dục của Ngô Thì Nhậm có ý nghĩa to lớn đối với xã hội đương thời, góp phần làm phong phú hơn nhận thức về con người ở giai đoạn sau. Con người không còn nhỏ bé, là vật trao đổi giữa các bậc vua chúa mà hiện thân của họ là cứu cánh cho sự hưng thịnh của quốc gia dân tộc.

(2) Ý nghĩa thực tiễn.

Trước hết, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm với tính nhân văn sâu sắc giúp định hướng cho ông trong cuộc đời hoạt động chính trị và đóng góp sức mình cho sự nghiệp bảo vệ đất nước.

Ngô Thì Nhậm tiếp thu tư tưởng “thời” trong Kinh Dịch, về mặt nhân cách ông noi theo Khổng Tử, về mặt kinh nghiệm cá nhân Ngô Thì Nhậm đã trải qua khủng hoảng nhân sinh (vụ án năm Canh Tý), chính vì thế ông đã lựa chọn chữ “thời” để làm tiền đề cống hiến phần đời còn lại bên cạnh vua Quang Trung, chăm lo đời sống cho Nhân dân, phụng sự vương triều Tây Sơn. Trong thời gian ở ẩn, Ngô Thì Nhậm vẫn một lòng kiên định với hệ tư tưởng Nho giáo, lấy tư tưởng Nho giáo làm ý thức hệ định hướng tư tưởng của bản thân. Ngô Thì Nhậm dùng trí thông minh, tài thao lược để nắm bắt tình hình lịch sử, quy luật tất yếu của cuộc sống, cách nhận định tình hình chính trị, thao lược trong quân sự kết hợp với ngòi bút sắc bén, ông đã viết nên các bài phú, bài chiếu thay vua Quang Trung điều hành chính trị vương triều. Vận dụng thời, thế và lòng dân vào “nước cờ Tam Điệp” – một cống hiến to lớn của Ngô Thì Nhậm giúp vua Quang Trung hành quân thần tốc từ Phú Xuân ra Thăng Long đánh tan bọn quân Thanh xâm lược vào mùng 5 tết Kỷ Dậu (1798). Cái gốc trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm xuyên suốt trong cuộc đời ông là Nhân dân và đất nước. Ông nhận thức được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, chỉ có Nhân dân mới có thể thực hiện được nhiệm vụ lịch sử đã giao, là lực lượng chính yếu trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược, đòi lại công lý. Việc lựa chọn phò tá vua Quang Trung là lựa chọn thời, thế và lòng dân trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, đây là một lựa chọn đúng đắn và mang tính thời đại.

Thứ hai, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm đóng góp vào những chủ trương, giải pháp hiện thực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn chính trị – xã hội đương thời.

Ngô Thì Nhậm khẳng định nội dung cốt lõi giáo dục là thúc đẩy ý chí học tập, tu dưỡng đạo đức cá nhân để làm tròn vai trò và trách nhiệm của con người trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Ông đã tinh tế, thấu hiểu được những thiếu sót trong giáo dục của xã hội đương thời, làmột trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo nàn của xã hội, tạo cơ hội cho ý đồ của kẻ thù xâm lược. Dưới nhãn quan nhạy bén của một nhà tư tưởng, chính trị, quân sự đại tài, ông đã nhận thức được những mối quan hệ gắn kết giữa giáo dục với pháp luật và chính trị, giáo dục là đạo trị nước. Chính sách trọng dân của Ngô Thì Nhậm góp phần giải quyết những bức xúc trong lòng dân tộc, Nhân dân ta dần có niềm tin vào triều đại Tây Sơn, vào sự lãnh đạo tài tình của vua Quang Trung đã góp phần giữ vững nền chính trị Tây Sơn thái hòa.

Thứ ba, vấn đề con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm góp phần củng cố cho những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng, phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.

Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam đã chứng minh không phải bộ máy hay khâu nào khác trong hệ thống chính trị mà chính là con người với phẩm chất và năng lực nhất định đã trở thành nhân tố quyết định trong công cuộc đổi mới đất nước. Văn kiện Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”6. Trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn hướng đến mục tiêu vì con người và phát huy con người, mọi việc đều phải lấy dân làm gốc, chăm lo đời sống người dân đầy đủ về mặt vật chất và tinh thần, động viên Nhân dân thực hiện giáo dục và bồi dưỡng nhân tài. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, con người được xem là nhân tố quyết định những cơ hội và vượt qua những thách thức, khó khăn đặt ra đối với đất nước. Với thắng lợi của các cuộc cách mạng trong lịch sử dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay, vai trò nhân tố con người và vai trò giáo dục là chìa khóa then chốt quyết định sự thịnh vượng của quốc gia dân tộc. 

5. Kết luận

Ngô Thì Nhậm dành cả cuộc đời để suy ngẫm về con người và thế sự, ví như trong cách lý giải về nguồn gốc, vai trò và vị trí con người, bản tính con người, sự sống và cái chết đều phải tuân theo quy luật tự nhiên, nhu cầu sống, nhu cầu tâm lý của con người, từ đó đưa ra phương pháp giáo dục để rèn luyện bản tính theo chiều hướng tích cực hơn. Xét trong điều kiện lịch sử – xã hội cụ thể, cách tiếp cận của Ngô Thì Nhậm về vấn đề con người mang tính tiến bộ. Quan điểm về con người trong tư tưởng của Ngô Thì Nhậm đã góp phần đề xuất những chủ trương, biện pháp giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội đương thời đặt ra, phát huy những giá trị đạo đức trong các mối quan hệ cơ bản của con người, củng cố cho những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong nhiệm vụ xây dựng con người mới hiện nay.

Chú thích:
1. Lâm Giang (2005). Ngô Thì Nhậm toàn tậpTập 3. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 225.
2. Nguyễn Lộc (1986). Văn học Tây Sơn. NXB Nghĩa Bình, tr. 31.
3. Lâm Giang (2005). Ngô Thì Nhậm toàn tậpTập 5. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 299-300.
4, 5. Lâm Giang (2005). Ngô Thì Nhậm toàn tậpTập 2. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 468, 621.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIITập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 215 – 216
Tài liệu tham khảo:
1. Phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/12/12/phat-huy-gia-tri-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc-trong-su-nghiep-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc-viet-nam-xa-hoi-chu-nghia/.
2. Tư tưởng dân chủ thời kỳ phong kiến Việt Nam và sự vận dụng hiện nay.https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/04/18/tu-tuong-dan-chu-thoi-ky-phong-kien-viet-nam-va-su-van-dung-hien-nay/.
3. Vận dụng sáng tạo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/07/30/van-dung-sang-tao-tu-tuong-trong-dan-cua-chu-tich-ho-chi-minh-trong-xay-dung-va-hoan-thien-he-thong-phap-luat-viet-nam-xa-hoi-chu-nghia/.