ThS. Nguyễn Phương Uyên
NCS. Trường Đại học Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
TS. Nguyễn Duy Hạnh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua, Hội Nông dân từ trung ương đến cơ sở đã tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao hiệu quả các hoạt động hỗ trợ nông dân, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ, dạy nghề, đặc biệt là nông dân bị thu hồi đất do quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Bài viết nêu lên những đóng góp của Hội Nông dân trong thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của Hội Nông dân trong giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Hội Nông dân, giải quyết việc làm, lao động nông thôn, hỗ trợ nông dân.
1. Đặt vấn đề
Hội Nông dân Việt Nam ra đời ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập (10/1930). Trong sự nghiệp Cách mạng dân tộc dân chủ, Hội Nông dân Việt Nam đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, sau đó là trên phạm vi cả nước, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, vai trò và nhiệm vụ của Hội Nông dân được Đảng đánh giá cao; đồng thời, cũng có nhiều đổi mới về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Hội Nông dân trong thời kỳ đổi mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những năm qua, Hội Nông dân chủ động tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, nhất là trong vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng thu nhập và ổn định đời sống người lao động ở nông thôn.
2. Thực trạng hoạt động của Hội Nông dân trong việc góp phần giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn
Với chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao, trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt những năm gần đây, khi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đô thị hóa đẩy mạnh, đồng nghĩa với việc người nông dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp, tình trạng người nông dân không có việc làm, thiếu việc làm diễn ra phổ biến, cùng cả hệ thống chính trị vào cuộc, Hội Nông dân đã chủ động tích cực tham gia nhiều hoạt động giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn thực hiện theo chỉ đạo của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 20/12/2023 của Bộ Chính trị về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Thứ nhất, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ, dịch vụ, dạy nghề cho nông dân phát triển sản xuất kinh doanh giải quyết việc làm cho nông dân.
Về hỗ trợ vốn cho nông dân: Tăng trưởng Quỹ Hỗ trợ nông dân đạt 1.761,2 tỷ đồng, bình quân mỗi năm tăng 11,5%, vượt chỉ tiêu Đại hội VII; nâng tổng nguồn vốn quỹ toàn hệ thống Hội đạt 4.827 tỷ đồng1. Công tác cho vay, thu hồi vốn được thực hiện theo đúng quy trình, quy định, bảo đảm an toàn nguồn vốn. Quỹ Hỗ trợ nông dân các cấp được sử dụng ngày càng hiệu quả, thiết thực, hỗ trợ nhiều hộ nông dân vươn lên khá giàu, khởi nghiệp thành công, trở thành hộ sản xuất, kinh doanh giỏi, phát triển hàng nghìn mô hình chi hội, tổ hội Nông dân nghề nghiệp; mô hình tổ, nhóm liên kết, hợp tác về trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ, góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho hội viên, nông dân. Các cấp Hội đã tích cực tín chấp hỗ trợ hàng triệu nông dân vay vốn trên 170 nghìn tỷ đồng2 để đầu tư sản xuất, kinh doanh, hạn chế nạn cho vay nặng lãi, tín dụng đen, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở nông thôn.
Tổ chức đào tạo nghề cho nông dân: Đào tạo nghề cho hội viên, nông dân gắn chuỗi tiêu thụ nông sản với phát triển dịch vụ, du lịch nông thôn được các cấp Hội chú trọng với nhiều mô hình và hình thức đào tạo phù hợp, thu hút nhiều lao động trẻ tham gia, góp phần nâng cao chất lượng lao động, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, tạo cơ hội việc làm, thu nhập ổn định cho nông dân. Hằng năm trực tiếp, phối hợp đào tạo nghề cho trên 110 nghìn nông dân3, trên 80% có việc làm, thu nhập ổn định; tạo việc làm tại chỗ cho hàng triệu lao động; tư vấn, giới thiệu việc làm cho trên 20 nghìn nông dân, giới thiệu đưa hơn 700 người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài4.
Hoạt động cung ứng vật tư, thiết bị nông nghiệp: Các cấp Hội đã tăng cường phối hợp, liên kết với các doanh nghiệp bảo lãnh cung ứng giống, vật tư đầu vào có chất lượng tốt cho nông dân theo hình thức trả chậm không tính lãi gắn với chuyển giao kỹ thuật, bảo quản chế biến, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, tạo điều kiện cho nông dân có điều kiện đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với các doanh nghiệp giới thiệu, hướng dẫn nông dân những thiết bị nông nghiệp cần thiết để giúp cho nông dân giảm bớt sức lao động, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Hướng dẫn, giới thiệu, hỗ trợ nông hộ xây dựng nhà lưới, nhà kính, nhà màng và ứng dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm, tự động vào sản xuất nông nghiệp công nghệ cao.
Hỗ trợ hội viên, nông dân tiếp cận tiến bộ khoa học – công nghệ: Phối hợp tổ chức tập huấn, chuyển giao khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp cho trên 11,8 triệu lượt hội viên; hỗ trợ, hướng dẫn nông dân xây dựng thành công 12.927 mô hình điểm5. Mô hình về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản an toàn theo tiêu chuẩn VietGap; mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ; mô hình ứng dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản; mô hình sản xuất thích ứng với hạn, mặn; mô hình kinh doanh dịch vụ, làng nghề…, tạo điều kiện cho hội viên, nông dân tham quan học tập để nhân rộng, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp; xây dựng và duy trì hàng trăm “Câu lạc bộ khoa học kỹ thuật nhà nông”, tổ chức cuộc thi “Sáng tạo kỹ thuật nhà nông”. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn, vận động hội viên sử dụng và truy cập mạng Internet, các trang mạng xã hội để khai thác thông tin về thị trường, giá cả, cập nhật quy trình sản xuất mới tiên tiến phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Hỗ trợ hội viên, nông dân quảng bá và tiêu thụ sản phẩm: Hoạt động quảng bá giới thiệu sản phẩm, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xúc tiến thương mại để tiêu thụ nông sản cho nông dân được quan tâm đẩy mạnh. Trung ương Hội phối hợp với Tổng công ty Bưu điện Việt Nam triển khai kế hoạch đưa các sản phẩm nông nghiệp của nông dân lên sàn thương mại điện tử Postmart.vn để kết nối, tiêu thụ nông sản. Hội Nông dân các tỉnh, thành phố ký kết thoả thuận hợp tác với Bưu điện tỉnh hỗ trợ nông dân chuyển đổi số trong nông nghiệp và kết nối tiêu thụ nông sản thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử. Đến nay có trên 5,3 triệu hộ sản xuất nông nghiệp đã được tạo tài khoản trên sàn thương mại điện tử (Postmart.vn và Voso.vn); 5,8 triệu hộ sản xuất nông nghiệp được đào tạo kỹ năng số; tổng số sản phẩm nông sản được đưa lên sàn thương mại điện tử hơn 78 nghìn sản phẩm6.
Thông qua thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các cấp Hội đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ quảng bá giới thiệu sản phẩm, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu nông sản, xúc tiến các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp kết nối đưa sản phẩm của nông dân tiêu thụ tại các trung tâm thương mại, siêu thị và các chợ đầu mối.
Thứ hai, Hội tiến hành xây dựng, phát triển các mô hình kinh tế có hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn thu hút nông dân các địa phương đẩy mạnh thực hiện góp phần giải quyết việc làm tăng thêm thu nhập. Hằng năm, Trung ương Hội đã chỉ đạo triển khai thực hiện các dự án hỗ trợ nông dân xây dựng, phát triển hàng trăm mô hình sản xuất, kinh doanh: mô hình về liên kết sản xuất, phát triển kinh tế; mô hình ứng dụng chế phẩm vi sinh vật trong sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn sinh học; mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm; mô hình sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu… tại 63 tỉnh, thành phố; Hội Nông dân các cấp đã tập trung hỗ trợ, hướng dẫn hội viên xây dựng và nhân rộng nhiều mô hình trang trại tổng hợp, mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, sinh thái, ứng dụng công nghệ cao; mô hình liên kết, hợp tác sản xuất theo chuỗi giá trị, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần giúp hội viên nông dân thoát nghèo, vươn lên làm giàu, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế, xã hội. Các cấp Hội tích cực hỗ trợ, hướng dẫn hội viên tham gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), mở ra cơ hội liên kết sản xuất chuỗi, nâng cao giá trị nông sản góp phần phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng bền vững.
Thứ ba, vận động, hướng dẫn, hỗ trợ nông dân tham gia phát triển các hình thức kinh tế tập thể trong nông nghiệp.
Thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Hội về “Hội Nông dân Việt Nam tham gia phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2020 – 2025”, các cấp Hội phối hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, thành viên hợp tác xã, tổ hợp tác tổ chức đào tạo tập huấn cho trên 36.000 cán bộ, thành viên hợp tác xã, tổ hợp tác và hội viên nông dân; thu hút nhiều hộ nông dân tham gia các dự án nhóm hộ xây dựng các mô hình sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ, tư vấn, hướng dẫn thành lập 10.561 mô hình kinh tế tập thể hoạt động hiệu quả (trong đó 2.127 hợp tác xã, 8.434 tổ hợp tác)7. Thực hiện Đề án số 03-ĐA/HNDTW về “Nâng cao vai trò của Hội Nông dân Việt Nam trong việc hỗ trợ nông dân khởi nghiệp sáng tạo, giai đoạn 2020 – 2025” của Trung ương Hội, các cấp Hội đã định hướng, vận động đông đảo hội viên nông dân tích cực khởi nghiệp, sáng tạo, góp phần tạo việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập.
3. Một số nhiệm vụ đặt ra đối với Hội Nông dân trong thời gian tới
Dự báo đến năm 2028, dân số nước ta sẽ đạt mức 102,3 triệu người, trong đó dân số nông thôn ở mức 58 triệu người. Lao động nông nghiệp chiếm dưới 20% trong tổng lao động xã hội. Thời kỳ dân số vàng sẽ ngắn lại do lao động có xu hướng già hóa. Một bộ phận lao động tay nghề thấp dư thừa ở các đô thị, khu công nghiệp sẽ di chuyển về nông thôn tìm sinh kế từ nông nghiệp, việc chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, chuyển đổi ngành nghề của nông dân dẫn đến sự thay đổi cơ cấu, tính chất giai cấp nông dân; tình trạng thiếu việc làm; biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó lường; mặt trái của hội nhập quốc tế và không gian mạng đang và sẽ tiếp tục tác động lớn đến nông dân, nông thôn.
Bộ Chính trị (khóa XIII) ban hành Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 20/12/2023 về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, đề ra: nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghề cho nông dân, lao động nông thôn và hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh.
(1) Tạo điều kiện, khuyến khích nông dân, lao động nông thôn học nghề, nâng cao năng lực gắn với các mô hình nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi; mở rộng hoạt động tư vấn về nghề nghiệp, việc làm, thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Phát huy vai trò của các trường, trung tâm thuộc Hội Nông dân trong xây dựng, chuyển giao mô hình sản xuất, kinh doanh gắn với đào tạo, bồi dưỡng nghề cho nông dân.
(2) Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, hỗ trợ cho nhóm nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, nông dân xuất sắc có đủ năng lực, điều kiện để thành lập hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ, là hạt nhân thúc đẩy quá trình “tri thức hóa nông dân”; giữ vai trò nòng cốt, dẫn dắt trong truyền nghề, hướng dẫn, hỗ trợ các hộ nông dân.
(3) Đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; tổ chức tốt hoạt động cung ứng thiết bị, vật tư nông nghiệp; hướng dẫn, hỗ trợ nông dân đầu tư cơ sở sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi hiện đại, ứng dụng công nghệ cao gắn với quy trình sản xuất an toàn, tiên tiến; phát triển sản xuất gắn với nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Có cơ chế để Hội Nông dân tham gia cung cấp một số dịch vụ công hỗ trợ cho hội viên, nông dân. Xây dựng chỉ số đánh giá làm cơ sở để tổ chức cho hội viên, nông dân tham gia đánh giá chất lượng dịch vụ, vật tư đầu vào trong sản xuất nông nghiệp.
(4) Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, hỗ trợ vốn cho nông dân; mở rộng mô hình Hội Nông dân tín chấp cho nông dân vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh. Chính quyền các cấp tăng cường quản lý, bố trí vốn từ ngân sách nhà nước, đồng thời vận động nguồn lực xã hội cho quỹ hỗ trợ nông dân để xây dựng các mô hình điểm trong phát triển nông nghiệp ở nông thôn.
(5) Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ kết nối thị trường, đa dạng hình thức quảng bá, xúc tiến thương mại, thương mại điện tử, tiêu thụ nông sản, hàng hoá, xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, đăng ký, bảo hộ thương hiệu, chuyển đổi số, bảo đảm an ninh, an toàn thực phẩm; phổ biến, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý cho hội viên, nông dân.
4. Một số giải pháp
Để thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ đề ra, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng, tư duy hợp tác, liên kết trong sản xuất, kinh doanh cho nông dân. Thực hiện giải pháp này, các cấp hội, nhất là Hội Nông dân ở cơ sở cần đẩy mạnh tập huấn, phổ biến nâng cao nhận thức về kinh tế nông nghiệp theo chuỗi giá trị nông sản cho hội viên, nông dân tích cực tham gia phát triển các chuỗi giá trị ngành hàng, thay đổi phương thức quản lý, sử dụng và kinh doanh vật tư nông nghiệp để xây dựng nền nông nghiệp hiệu quả, bền vững, có trách nhiệm, hình thành tác phong làm việc công nghiệp cho nông dân.
Các cấp Hội chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cho hội viên, nông dân các kiến thức về nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn, thông minh, chính xác; an toàn lao động, bảo vệ môi trường, sử dụng máy móc cơ giới, phân bón, thuốc hóa học đúng cách trong sản xuất; khoa học kỹ thuật, kinh tế, thị trường, pháp luật, chuyển đổi số, kinh tế số; trang bị cho nông dân các kỹ năng sản xuất, marketing, bán hàng, sử dụng công nghệ thông tin, dịch vụ công; nâng cao trình độ, năng lực tham gia thị trường, hội nhập quốc tế và năng lực quản trị cho hội viên nông dân, các chủ trang trại, hợp tác xã của hội viên nông dân đa dạng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nâng cao trình độ, kỹ năng cho các nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, nông dân xuất sắc có đủ năng lực phấn đấu trở thành chủ tịch, giám đốc hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ, trở thành hạt nhân thúc đẩy quá trình “tri thức hóa nông dân”, tạo bước đột phá trong xây dựng lực lượng nông dân chuyên nghiệp, tay nghề cao.
Hai là, vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia.
Các cấp Hội cần đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức, vận động hội viên, nông dân tích cực tham gia thực hiện các chương trình hành động, kế hoạch thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 – 2025 và đến năm 2030 của Chính phủ, các bộ, ngành và các cấp Hội về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Vận động hội viên, nông dân nêu cao tinh thần tự giác, đoàn kết trong cộng đồng, tích cực tham gia hiến đất, góp tiền, ngày công lao động để góp phần hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu. Hướng dẫn hội viên, nông dân tham gia xây dựng nông thôn mới thông minh, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số.
Đẩy mạnh hướng dẫn, hỗ trợ, vận động hội viên, nông dân tham gia thực cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai; thực hiện thu gom, phân loại, xử lý chất thải sinh hoạt, chăn nuôi, phụ phẩm nông nghiệp tại nguồn, tập trung; nhân rộng các mô hình “Nông dân tham gia bảo vệ môi trường”, “Thùng rác thân thiện với môi trường”, “Nông dân thu gom, phân loại và xử lý rác thải, chất thải nông thôn thành phân bón tại nguồn”, “Nói không với túi nilon và rác thải nhựa”…; tích cực tham gia thực hiện có hiệu quả các mô hình giảm nghèo, đa dạng hóa sinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống, chỉ số phát triển con người cho hội viên, nông dân, nhất là ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số.
Các cấp Hội phát huy vai trò trực tiếp tham gia thực hiện một số nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội ở nông thôn, thực hiện có hiệu quả các chương trình phối hợp giữa Trung ương Hội với Chính phủ, bộ, ngành và các tổ chức liên quan, các chương trình phối hợp giữa các cấp Hội với các cơ quan, tổ chức cùng cấp ở địa phương trong thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, hỗ trợ nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất, tạo sinh kế, việc làm, nâng cao thu nhập, đời sống.
Ba là, hỗ trợ, hướng dẫn hội viên, nông dân phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp mới, các mô hình liên kết, hợp tác theo chuỗi giá trị; các mô hình kinh tế hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn.
Hỗ trợ, hướng dẫn hội viên, nông dân phát triển đa dạng các mô hình kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại phù hợp với trình độ và nhu cầu của nông dân. Đẩy mạnh thí điểm xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất nông nghiệp mới làm hình mẫu như nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp xanh, tiết kiệm tài nguyên và giảm thải; nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, thông minh, công nghệ cao; nông nghiệp kết hợp công nghiệp (chế biến nông sản, tái chế phế, phụ phẩm nông nghiệp), nông nghiệp kết hợp dịch vụ (du lịch trải nghiệm, bảo vệ môi trường, dịch vụ kinh doanh nông sản); nông nghiệp đô thị theo hướng “thành phố xanh”, “khu đô thị sinh thái”; tổng kết, đánh giá và phổ biến, hướng dẫn hội viên, nông dân nhân rộng mô hình phù hợp với điều kiện đặc thù của từng địa phương.
Đẩy mạnh hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển các mô hình hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp với hợp tác xã và hộ nông dân, giữa doanh nghiệp với hộ nông dân, giữa hợp tác xã với hộ nông dân, giữa các hộ nông dân để sản xuất, kinh doanh theo chuỗi giá trị, phát triển hệ sinh thái nông nghiệp công nghệ cao, sản xuất tập trung quy mô lớn gắn với áp dụng các quy trình kỹ thuật chuẩn và mã vùng sản xuất; xây dựng các mô hình kinh tế tuần hoàn, ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp, nông thôn. Thí điểm xây dựng mô hình quản lý chuỗi cung ứng nông sản ứng dụng “công nghệ chuỗi khối” phù hợp với trình độ của hội viên, nông dân và điều kiện của từng địa bàn; tổng kết, đánh giá và tập huấn, hướng dẫn nhân rộng mô hình.
Phát huy vai trò cầu nối của Hội Nông dân các cấp trong liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp (doanh nghiệp sản xuất, phân phối, ngân hàng) để hỗ trợ hội viên, nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh nông sản và tăng thu nhập cho nông dân.
Bốn là, tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề cho nông dân.
Các cấp Hội chủ động khảo sát, nắm bắt nhu cầu và đẩy mạnh các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nghề cho hội viên, nông dân gắn với giải quyết việc làm, nhu cầu lao lao động của thị trường, doanh nghiệp, hợp tác xã, đáp ứng chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế nông thôn của từng vùng, miền.
Đổi mới nội dung đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề và dịch vụ, hỗ trợ nông dân thuộc tổ chức Hội; xây dựng và tổ chức đào tạo nghề cho nông dân với các chương trình đào tạo “nông dân chuyên nghiệp”, “lao động tay nghề cao” phù hợp với trình độ của nông dân ở từng địa phương; nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho nông dân muốn khởi nghiệp các kỹ năng về nông nghiệp xanh, hữu cơ, tuần hoàn, kỹ năng quản trị, kỹ năng mới; hỗ trợ nông dân tiếp cận với khoa học kỹ thuật, khởi nghiệp sáng tạo. Đa dạng hóa hình thức đào tạo theo hướng tăng cường thực hành gắn với mô hình thực tế, học trực tuyến qua mạng Internet, thăm quan học tập kinh nghiệm.
Phát huy vai trò của hệ thống Trung tâm Hỗ trợ nông dân trong xây dựng, hướng dẫn và chuyển giao các mô hình sản xuất, kinh doanh tiên tiến gắn với dạy nghề cho nông dân. Vận động, khuyến khích các nghệ nhân, nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, nông dân xuất sắc tham gia truyền nghề, đào tạo, bồi dưỡng nghề cho các hộ nông dân khác phát triển.
Các cấp Hội chủ động liên kết, phối hợp với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho nông dân sau học nghề tại các doanh nghiệp và đưa đi lao động ở nước ngoài. Tổ chức thực hiện tốt các chương trình phối hợp đào tạo nghề cho hội viên, nông dân theo các nội dung về giáo dục nghề nghiệp thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia.
Năm là, nâng cao hiệu quả hoạt động cung cấp tín dụng, hỗ trợ vốn cho nông dân.
Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quỹ Hỗ trợ nông dân, đẩy mạnh phát triển nguồn vốn quỹ hỗ trợ nông dân các cấp; chủ động tham mưu với cấp ủy, đề xuất với chính quyền cùng cấp hàng năm trích ngân sách bổ sung vốn quỹ hỗ trợ nông dân phù hợp với khả năng cân đối ngân sách nhà nước; tích cực vận động các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân ủng hộ phát triển vốn quỹ; tranh thủ vốn ủy thác của Nhà nước, nguồn tài trợ, vốn vay ưu đãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để hỗ trợ vốn cho nông dân.
Tổ chức thực hiện tốt Nghị định của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành về tổ chức, thành lập và hoạt động Quỹ Hỗ trợ nông dân, bảo đảm hoạt động hiệu quả; củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức, xây dựng nguồn nhân lực quản lý, điều hành Quỹ Hỗ trợ nông dân các cấp theo hướng chuyên nghiệp. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và giải quyết, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, chấn chỉnh, xử lý nghiêm các vi phạm, bảo đảm an toàn, minh bạch, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Tiếp tục nhân rộng và nâng cao hiệu quả mô hình Hội Nông dân tín chấp với các tổ chức tín dụng hỗ trợ nông dân vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng dư nợ với các ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay. Phát huy vai trò của các cấp Hội phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cung cấp tín dụng cho nông dân, phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội cung cấp vốn cho hộ nghèo, các đối tượng chính sách để tăng cường nguồn lực cho nông dân phát triển sản xuất, kinh doanh, đặc biệt những nghề thu hút giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động ở nông thôn.
Sáu là, tăng cường chuyển giao khoa học – kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ mới trong sản xuất, kinh doanh hỗ trợ nông dân phát triển sản phẩm nông nghiệp công nghệ cao.
Các cấp Hội tập trung hướng dẫn, hỗ trợ hội viên, nông dân ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới vào sản xuất, bảo quản và chế biến nông sản, trong đó chú trọng các công nghệ bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; đẩy mạnh việc áp dụng các biện pháp tiên tiến trong kinh doanh, quản lý an toàn thực phẩm; phát huy vai trò cầu nối liên kết giữa nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với nhà nông để đẩy mạnh chuyển giao khoa học – công nghệ nhất là công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thân thiện với môi trường trong sản xuất nông nghiệp.
Hội nông dân các cấp hỗ trợ phối hợp, đặt hàng với các cơ quan quản lý, tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ để giúp nông dân sản xuất ra các sản phẩm công nghệ cao. Chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn, nhà khoa học, doanh nghiệp tổ chức tập huấn, chuyển giao cho nông dân ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao, công nghệ 4.0 vào sản xuất các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ mới theo chuỗi giá trị bảo đảm đạt tiêu chuẩn chất lượng, như: Vietgap, Globalgap. Đẩy mạnh các hoạt động tập huấn, phổ biến nâng cao nhận thức, tinh thần khởi nghiệp, tham gia đổi mới sáng tạo cho hội viên, nông dân; tăng cường các hoạt động hỗ trợ hội viên, nông dân tham gia đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp thành công.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6. Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (2023). Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông dân Việt Nam (khóa VII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Hội Nông dân Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2008). Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2023). Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 20/12/2003 về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
3. Chính phủ (2023). Nghị định số 37/2023/NĐ-CP ngày 24/6/2023 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Hỗ trợ nông dân.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.