Mô hình quản lý dịch vụ kế toán, kiểm toán trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

TS. Nguyễn Thị Hà
Trường Đại học công nghệ Đông Á

(Quanlynhanuoc.vn) – Dịch vụ kế toán, kiểm toán đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm trên thế giới và được quản lý trên nguyên tắc Nhà nước phối hợp với Hiệp hội nghề nghiệp. Căn cứ vào sự phân quyền quản lý và kiểm soát giữa Nhà nước và Hiệp hội nghề nghiệp, hiện nay có 4 mô hình quản lý: mô hình tự kiểm soát; mô hình ủy ban độc lập; mô hình nhà nước – hội đồng tư vấn và mô hình quản lý giám sát theo luật định. Với mỗi mô hình quản lý sẽ luôn ảnh hưởng đến cách thức triển khai và công bố các chuẩn mực kế toán, kiểm toán. Bài viết phân tích các mô hình quản lý dịch vụ kiểm toán, kế toán trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Từ khóa: Mô hình quản lý; giám sát; chuẩn mực; kế toán; kiểm toán; xây dựng; ban hành.

1. Đặt vấn đề

Dịch vụ kế toán, kiểm toán là loại hình dịch vụ kinh doanh có điều kiện với nhiều ràng buộc tự thân và bắt buộc về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cũng như sự quản lý của Nhà nước. Các dịch vụ trong nền kinh tế khi cung cấp dịch vụ chỉ liên quan đến hai chủ thể là bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ (người trực tiếp thụ hưởng và trả phí). Dịch vụ kế toán, kiểm toán khi cung cấp dịch vụ phải xác định được mối quan hệ 3 bên là: bên cung cấp dịch vụ (người hành nghề), đối tượng sử dụng dịch vụ (bên chịu trách nhiệm trả phí) và người sử dụng kết quả dịch vụ (bên thụ hưởng). Trong đó, người trả phí dịch vụ lại không phải là người thụ hưởng. Quá trình cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán lại không quan sát được (unobservable), vì thế, người sử dụng dịch vụ không có “trải nghiệm” như các loại hình dịch vụ khác.

Kết quả dịch vụ kế toán, kiểm toán được sử dụng bởi rất nhiều đối tượng trong nền kinh tế và không xác định được cụ thể trước khi cung cấp dịch vụ. Mức độ ảnh hưởng và sức “công phá” của kết quả dịch vụ kế toán, kiểm toán là rất lớn nên nhiều khi không chỉ ảnh hưởng tới sự ổn định của nền kinh tế của một quốc gia mà có thể ảnh hưởng đến nhiều quốc gia. Xuất phát từ những khác biệt của ngành kinh doanh dịch vụ có điều kiện và yêu cầu phải hài hòa lợi ích, giải quyết xung đột giữa các bên liên quan trong quá trình cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán nên hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ kế toán, kiểm toán và sự ổn định của nền kinh tế. 

Khi xây dựng, ban hành và công bố chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, câu hỏi đặt ra với các quốc gia là nên lựa chọn giao cho Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện triển khai và công bố hay cơ quan QLNN phối hợp với Hiệp hội nghề nghiệp nghiên cứu, soạn thảo, ban hành và công bố; hoặc Hiệp hội nghề nghiệp nghiên cứu, soạn thảo và trình cơ quan QLNN ban hành và công bố? Thực tế cho thấy, với mỗi mô hình quản lý, các quốc gia sẽ lựa chọn cách thức triển khai và công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán khác nhau. 

2. Các mô hình quản lý trong xây dựng, ban hành và công bố hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán trên thế giới

Thứ nhất, mô hình tự kiểm soát.

Theo mô hình này, Nhà nước giao quyền cho Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện chức năng kiểm tra và giám sát dịch vụ kế toán, kiểm toán và không có sự tham gia của các bên khác trong xã hội. Theo đó, Nhà nước cũng giao quyền cho Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện nghiên cứu, soạn thảo, ban hành và công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; ban hành các tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán; tổ chức đào tạo, thi và cấp chứng hành nghề; tổ chức cập nhật kiến thức mới hằng năm cho hội viên, cung cấp thông tin nghề nghiệp và tư vấn chuyên môn cho hội viên; kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán do hội viên cung cấp, quản lý đạo đức nghề nghiệp và xử lý các sai phạm của hội viên.

Hoa Kỳ là quốc gia theo đuổi mô hình tự quản lý, hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán được ra đời trước khi có chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán quốc tế. Năm 1948, Hiệp hội Kế toán viên Công chứng Hoa Kỳ ban hành các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán được chấp nhận phổ biến (GAAS) và các CMKiT (SAS). Hiệp hội Kế toán viên Công chứng Hoa Kỳ phối hợp với Ủy ban Giám sát hoạt động kế toán các công ty đại chúng (PCAOB) thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán.  

Với các quốc gia theo đuổi mô hình tự kiểm soát, Nhà nước thực hiện phi tập trung hóa quyền lực, áp dụng chế độ cùng quản lý. Chức năng quản lý và giám sát được giao cho các cơ quan độc lập, Nhà nước chỉ tập trung thực hiện chức năng định hướng, khuyến khích và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện triển khai và công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những người soạn thảo và ban hành các chuẩn mực, có kiến thức và kinh nghiệm đầy đủ; đồng thời có điều kiện đáp ứng kịp thời các vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn nghề nghiệp. 

Tuy nhiên, các chuẩn mực được ban hành bị phê phán là bảo vệ lợi ích của những người hành nghề hơn là bảo vệ các lợi ích xã hội; đặc biệt là những người sử dụng thông tin hoặc nhà quản lý ở các doanh nghiệp và tính tuân thủ được đánh giá là rất hạn chế. Điều này dẫn đến ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán bị hạn chế so với kỳ vọng về tính độc lập và khách quan của nền kinh tế. Do đó,Hiệp hội nghề nghiệp sẽ đặt ra quy định bắt buộc các doanh nghiệp kiểm toán, doanh nghiệp dịch vụ kế toán và người hành nghề kế toán, kiểm toán phải là hội viên của hội nghề nghiệp và hội viên cá nhân phải là người đã có chứng chỉ kế toán viên công chứng (CPA). Mặc dù cơ quan QLNN thừa nhận kết quả hoạt động của Hiệp hội nghề nghiệp, tuy nhiên Nhà nước vẫn thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát hoạt động của Hiệp hội nghề nghiệp để bảo đảm quản lý và kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. 

Thứ hai, mô hình Ủy ban độc lập.

Mô hình Ủy ban độc lập là một dạng điều chỉnh của mô hình tự kiểm soát. Trong mô hình này, Hiệp hội nghề nghiệp vẫn giữ vai trò chủ yếu trong quản lý, giám sát và thiết lập chuẩn mực nhưng phải tuân thủ và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi ủy ban độc lập. Ủy ban độc lập là một tổ chức tập hợp nhiều thành viên trong xã hội (các đối tượng sử dụng thông tin, cơ quan nhà nước, các nhà khoa học…) nhằm tăng cường sự thừa nhận của xã hội. Ủy ban độc lập phối hợp với Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện ban hành, công bố, soát xét, sửa đổi và chấp thuận các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và tham gia ý kiến của các bên liên quan để đạt được sự bảo đảm hợp lý trong mục tiêu, yêu cầu, hướng dẫn áp dụng, các giải thích khác trong từng chuẩn mực.

Các quốc gia như Hà Lan, Nhật Bản đang theo mô hình Ủy ban độc lập, việc ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và quản lý giám sát phải tuân thủ và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các cơ quan nhà nước thông qua vai trò của Ủy ban độc lập. Việc ban hành, công bố, soát xét, sửa đổi và chấp thuận các chuẩn mực kế toán, kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và tham gia ý kiến của các bên liên quan để đạt được sự bảo đảm hợp lý trong mục tiêu, yêu cầu, hướng dẫn áp dụng, các giải thích khác trong từng chuẩn mực. Theo đó, các chuẩn mực và quy chế về quản lý, giám sát mang tính cưỡng chế cao. Tuy nhiên, với sự có mặt của ủy ban độc lập sẽ làm cho các quy chế giám sát mềm dẻo hơn và tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi của các chuẩn mực kiểm toán.

Mô hình ủy ban độc lập với các thành viên của ủy ban độc lập là các chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực của các nhóm lợi ích khác nhau trong xã hội và độc lập về tài chính thực hiện giám sát. Các chuẩn mực kế toán, kiểm toán được ban hành sẽ hài hòa quyền lợi của các nhóm lợi ích. Điều này cho phép dịch vụ kế toán, kiểm toán cung cấp sẽ được giám sát chặt chẽ bởi các bên liên quan nên chất lượng sẽ cao. Tuy vậy mô hình ủy ban độc lập cũng có những hạn chế, đó là, khả năng ảnh hưởng của các doanh nghiệp, tổ chức nghề nghiệp đến ủy ban và sự đồng thuận của nhiều nhóm lợi ích phải trải qua nhiều thời gian, do vậy, việc xây dựng và ban hành các chuẩn mực và quy định về quản lý, giám sát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán thường chậm trễ và khó đạt được tính tuân thủ cao trừ khi có sự thừa nhận, phê chuẩn của Nhà nước.

Thứ ba, mô hình nhà nước – hội đồng tư vấn.

Theo mô hình này, Nhà nước thực hiện quản lý, giám sát và cho phép Chính phủ thành lập hội đồng tư vấn hoặc ủy ban chuyên môn nhằm tập hợp các chuyên gia có kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực với mục đích làm cho các quy chế quản lý kiểm toán độc lập mềm dẻo hơn và tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi bên cạnh việc phải chấp hành theo yêu cầu của luật định.

Hàn Quốc, Singapore theo đuổi mô hình nhà nước – hội đồng tư vấn. Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện quản lý, giám sát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán và bảo vệ lợi ích của những người hành nghề. Cơ quan QLNN phối hợp với Hiệp hội nghề nghiệp, nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề.

Với mô hình này, việc ban hành các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp phải tuân thủ và chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các cơ quan Nhà nước thông qua vai trò của các cơ quan có nhiệm vụ như Hội đồng tư vấn. Theo đó, các chuẩn mực và quy chế về quản lý, giám sát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán mang tính cưỡng chế cao. Tuy nhiên, với sự có mặt của hội đồng tư vấn sẽ làm cho các quy chế giám sát mềm dẻo hơn và tăng cường tính được chấp nhận rộng rãi của các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Điều này cho phép chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán cung cấp sẽ được giám sát chặt chẽ song cũng phụ thuộc rất nhiều vào chế tài xử phạt và pháp luật đối với những sai phạm trong quản lý, sai phạm của các doanh nghiệp cung cấp và chứng chỉ CPA (Certified Public Accountants).

Thứ tư, mô hình luật định.

Theo mô hình này, hoạt động quản lý, giám sát dịch vụ kế toán, kiểm toán được ủy quyền cho một cơ quan Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội theo luật định. Chính phủ sẽ giao cho các cơ quan chuyên trách thực hiện QLNN đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán (Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán…). Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện tham gia quản lý theo sự ủy quyền, trao quyền của Nhà nước được quy định trong hiến pháp và pháp luật. Chính phủ sẽ giao cho các cơ quan QLNN thực hiện ban hành các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Hiệp hội nghề nghiệp thực hiện tham gia nghiên cứu, soạn thảo chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo sự uỷ quyền, trao quyền của Nhà nước được quy định trong Hiến pháp và pháp luật. 

Trung Quốc, Việt Nam là những quốc gia theo mô hình này. Ở đó, vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp trong việc ban hành các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệpvà quy chế giám sát kiểm toán độc lập rất thấp hoặc không có. Các quy chế quản lý, giám sát mang tính chất cưỡng chế cao, lợi ích xã hội luôn được nhấn mạnh. Khi áp dụng mô hình này, các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp được ban hành sẽ có sự chậm trễ bởi tính quan liêu của các cơ quan QLNN. Do bị “chính trị hóa” và bằng quyền lực chính trị, nên các chính sách kiểm tra, giám sát có tính chất cưỡng chế cao nên ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. Nếu quốc gia nào có Hiệp hội nghề nghiệp phát triển mạnh, đưa ra được các chuẩn mực chặt chẽ sẽ bảo đảm chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán được kiểm soát chặt chẽ. Ngược lại, nếu quốc gia có Hiệp hội nghề nghiệp không đủ mạnh để đảm nhận vai trò giám sát, khi đó sẽ khó bảo đảm chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán, lúc này đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp sâu thực hiện quản lý, giám sát chặt chẽ và vai trò của Hiệp hội nghề nghiệp chỉ mang tính phối hợp thực hiện và tham gia hướng dẫn, tư vấn phát hiện sau kiểm tra.

3. Kinh nghiệm cho Việt Nam

Một là, cần phải có sự can thiệp của Chính phủ vào trong hoạt động quản lý, giám sát và ban hành chuẩn mực thông qua một cơ quan, tổ chức giám sát trực thuộc Chính phủ hoặc là một tổ chức độc lập có chức năng như cơ quan Chính phủ. Cơ quan, tổ chức này có trách nhiệm giám sát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán. 

Hai là, không thể thiếu vai trò của tổ chức nghề nghiệp trong việc phối hợp với cơ quan, tổ chức giám sát thực hiện hoạt động giám sát và ban hành chuẩn mực. Cơ quan, tổ chức giám sát có thể tận dụng nguồn nhân lực có kinh nghiệm và chuyên môn cao từ tổ chức nghề nghiệp để tham gia đội ngũ giám sát, phối hợp với tổ chức nghề nghiệp trong quản lý, giám sát và xây dựng chuẩn mực nghề nghiệp. 

Ba là, cần có sự phối hợp với cơ quan, tổ chức giám sát, tổ chức nghề nghiệp quốc tế nhằm cải thiện hoạt động quản lý, giám sát và xây dựng chuẩn mực nghề nghiệp. Trong thời đại mà hội nhập quốc tế đang là xu hướng toàn cầu thì các quy định về quản lý, giám sát và chuẩn mực nghề nghiệp điều chỉnh hoạt động dịch vụ kế toán, kiểm toán cũng cần phải cập nhật, điều chỉnh theo thông lệ quốc tế. Sự hợp tác giữa các cơ quan giám sát và tổ chức nghề nghiệp trong nước và các cơ quan, tổ chức quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập trên các khía cạnh khuôn khổ pháp lý, chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán.

Bài học lớn nhất rút ra từ thực tế quản lý đó là, nếu tổ chức nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán phát triển mạnh, đưa ra được các chuẩn mực chặt chẽ, khi đó, Nhà nước chỉ đưa ra các khuôn khổ pháp lý và giao cho tổ chức nghề nghiệp thực hiện quản lý, giám sát và nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp. Ngược lại, nếu tổ chức nghề nghiệp không đủ mạnh để đảm nhận vai trò quản lý, giám sát, khi đó, Nhà nước phải can thiệp sâu, phối hợp với tổ chức nghề nghiệp thực hiện quản lý, giám sát, nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán.

Tại Việt Nam, Nhà nước thống nhất quản lý dịch vụ kế toán, kiểm toán theo luật định. Để phù hợp với thể chế chính trị và tính hiệu lực tối cao của các cơ quan QLNN, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính chịu trách nhiệm quản lý và giám sát dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Việt Nam. Bộ Tài chính giao cho Cục Quản lý, giám sát kế toán, kiểm toán thực hiện chức năng quản lý, giám sát và thực hiện kiểm tra việc tuân thủ các quy định về kế toán, kiểm toán của các doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện kiểm tra chất lượng dịch vụ kiểm toán do các doanh nghiệp kiểm toán và kiểm toán viên hành nghề thực hiện kiểm toán cho các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán. 

Hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán được coi là hệ thống văn bản pháp luật. Bộ Tài chính đã ra nhiều thông tư ban hành chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán. Hội Kiểm toán viên hành nghề của Việt Nam được Bộ Tài chính ủy quyền thực hiện nghiên cứu, soạn thảo, cập nhật hệ thống chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán trên cơ sở chuẩn mực kiểm toán quốc tế và trình Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Việc giao cho tổ chức nghề nghiệp nghiên cứu, soạn thảo chuẩn mực nghề nghiệp sẽ dẫn tới việc bảo vệ lợi ích của những người hành nghề được ưu tiên hơn là bảo vệ lợi ích của xã hội. Thực tế này đòi hỏi Việt Nam cần phải có một Ủy ban chuẩn mực kế toán, kiểm toán (thay thế ban soạn thảo hiện nay) làm cơ quan thường trực để theo dõi, giám sát thường xuyên việc thực thi chuẩn mực kế toán, kiểm toán, tổ chức nghiên cứu, cập nhật cho phù hợp với những thay đổi của chuẩn mực quốc tế và làm đại diện cho Việt Nam tham gia các diễn đàn trao đổi về kế toán, kiểm toán trong khu vực và quốc tế đồng thời là cầu nối để trao đổi, quan hệ hợp tác.  

4. Kết luận

Nghiên cứu các mô hình mô hình quản lý, giám sát và lựa chọn cách thức triển khai và công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển dịch vụ và sự ổn định của nền kinh tế. Dịch vụ kế toán, kiểm toán sẽ không thể phát triển và đóng góp tốt nhất vào nền kinh tế nếu không có sự bảo đảm về khuôn khổ pháp lý, tính hiệu lực, hiệu quả của QLNN và sự kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ. Tại Việt Nam, dịch vụ kế toán, kiểm toán đã dần khẳng định được vị thế và uy tín trong nền kinh tế. QLNN đối với dịch vụ kế toán kiểm toán đã có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế trong quá trình quản lý, gồm: chưa bắt kịp tốc độ phát triển của kế toán, kiểm toán; hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán và các khuôn khổ pháp lý chưa đồng bộ; tính chủ động và phối hợp giữa các cơ quan QLNN chưa cao; hoạt động kiểm tra, giám sát dịch vụ kế toán, kiểm toán mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá tính tuân thủ pháp luật và các quy định về dịch vụ, chưa đi sâu vào kiểm tra, giám sát chuyên môn và kiểm soát chất lượng dịch vụ. Chính phủ cũng đã nhận thấy cần thiết phải có chiến lược phát triển dịch vụ kế toán, kiểm toán ở Việt Nam để hòa nhập vào thị trường khu vực ASEAN và thị trường quốc tế. 

Tài liệu tham khảo: 
1. Nguyễn Thị Hà (2021). Quản lý nhà nước đối với dich vụ kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Luận án tiến sĩ. Trường Đại học Thương Mại.
2. Phan Thanh Hải (2013). Xác lập mô hình tổ chức cho hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt nam để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động trong xu thế hội nhập. Luận án tiến sĩ. Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
3. Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (2013). Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (toàn tập 37 chuẩn mực mới và 5 chuẩn mực còn hiệu lực).
4. Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (2015). Hệ thống 10 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam đợt 2. 
5. George, A., Akerlof, A., Spence, M., & Stiglitz, J. E. (2001). Information for the Public, Markets with Asymmetric Information. New York: Nobel Prize Committee.
6. Ghazanchyan, M., & Stotsky, J. G. (2013). Drivers of Growth: Evidence from Sub-Saharan African Countries. IMF Working Paper, 13(236), 3 – 31.
7. Godfrey, P. C., Merrill, C. B., & Hansen, J. M. (2009). The relationship between corporate social responsibility and shareholder value: an empirical test of the risk management hypothesis. Strategic Management Journal, 30(4), 425 – 445.
8. International Auditing and Assurance Standards Board (2018). Handbook of international Quality Control, Auditing, Review, Other Assurance, and Related Services Pronouncement.
9. International Ethichs Standards Board for Accountants (2018). Handbook of the International Code of Ethichs for Professional Accountants, including International Independence Standards.
10. World Bank, T. (2016). Report on the Observance of Standards and Codes (ROSC): accounting and auditing. Washington, D.C: The IMF.