Vũ Đức Văn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Là tỉnh nằm ở cực Nam của đồng bằng sông Hồng, có vị trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, quốc phòng – an ninh và có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội; đặc biệt, dịch vụ của tỉnh phát triển mạnh mẽ với du lịch trở thành điểm sáng đang dần trở thành trung tâm du lịch của quốc gia và quốc tế, tỉnh Ninh Bình đã xác định phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Chỉ thị số 37 ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư (khóaXI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao là một trong những khâu đột phá, là điều kiện quan trọng để Ninh Bình sớm trở thành một tỉnh phát triển nhanh và bền vững, có sức hấp dẫn lan tỏa trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc.
Từ khóa: Đào tạo nguồn nhân lực; tay nghề cao; động lực; phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao không những là một trong những khâu đột phá mà còn là điều kiện, động lực quan trọng để Ninh Bình phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, những năm qua, công tác phổ biến, quán triệt, tuyên truyền Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao được tỉnh triển khai thực hiện nghiêm túc, đồng bộ, kịp thời trong toàn tỉnh, bảo đảm các yêu cầu của Trung ương. Công tác giáo dục nghề nghiệp luôn được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, đạt nhiều kết quả tích cực; nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên và xã hội về đào tạo nhân lực có tay nghề cao ngày càng được nâng lên. Chỉ số về đào tạo lao động trong Bảng xếp hạng Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Ninh Bình luôn đạt thứ hạng cao; vai trò, tầm quan trọng của nguồn nhân lực có tay nghề cao ngày càng được khẳng định, được đánh giá đúng giá trị đóng góp trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
2. Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao ở tỉnh Ninh Bình những năm qua
Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW, tỉnh Ninh Bình đã đạt được nhiều kết quả tích cực, trongđó: công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, của các cấp, các ngành luôn bảo đảm thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả; đã tăng cường lãnh đạo cơ quan chuyên môn hướng dẫn thực hiện các chính sách, đề án, dự án, chương trình của Trung ương đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao. Đặc biệt, đã có những quy định chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, trình độ trung cấp, cao đẳng tỉnh Ninh Bình; đồng thời, tập trung đào tạo các ngành nghề có thế mạnh của tỉnh, các nhóm ngành nghề đang phát triển, có nhu cầu sử dụng nhân lực lớn, phục vụ cho việc phát triển công nghiệp, như: ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô, ngành công nghiệp điện tử. Đây cũng là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, đặc biệt là các nhóm ngành nghề khách sạn, du lịch, thể thao và dịch vụ cá nhân để phục vụ nhu cầu nhân lực của các ngành nghề kinh tế chủ lực trên địa bàn tỉnh, cùng nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách khác đã góp phần hỗ trợ khuyến khích thu hút ngày càng nhiều học sinh, sinh viên tham gia đào tạo nghề tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Cũng trong 10 năm qua, hệ thống chính sách, pháp luật giáo dục nghề nghiệp từng bước được hoàn thiện bảo đảm gắn với thị trường lao động theo hướng mở liên thông, hiện đại, hội nhập và thích ứng bảo đảm quy mô, cơ cấu và hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, chuẩn hóa, phân tầng chất lượng gắn với yêu cầu và xu hướng phát triển của thị trường lao động. Các cấp, các ngành có liên quan đã chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là các trường cao đẳng, trung cấp xác định lấy kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp làm thước đo chất lượng đào tạo, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị thực hành nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tập trung xây dựng chương trình, giáo trình đổi mới hình thức tuyển sinh. Công tác quy hoạch xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển, các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo được tăng cường. Tính đến ngày 30/5/2024, trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đã có 27 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong đó có 19 cơ sở công lập và 8 cơ sở tư thục. Tỉnh Ninh Bình có 23 nghề trọng điểm được phê duyệt, bao gồm: 6 nghề cấp độ quốc tế, 7 nghề cấp độ khu vực ASEAN, 10 nghề cấp độ quốc gia2.
Các nội dung, chương trình, phương thức đào tạo nghề nghiệp được cập nhật, đổi mới, bảo đảm “học đi đôi với hành”; cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện đào tạo được nâng cấp, chuẩn hóa đáp ứng với nhu cầu đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Giai đoạn 2014 – 2023, toàn tỉnh tuyển sinh và đào tạo mới các trình độ giáo dục nghề nghiệp cho 172.823 người; dự kiến hết năm 2024 đào tạo nghề cho 17.500 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo hằng năm đều tăng, cụ thể: năm 2015 đạt 54%, năm 2020 là 65%, năm 2022 đạt 68%, năm 2023 đạt 69,5%, dự kiến năm 2024 đạt 71%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ: năm 2015 đạt 24,3%, 2020 đạt 30,2%, năm 2022 đạt 31,8%, năm 2023 đạt 33,6%, dự kiến năm 2024 đạt 35,3%; phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 – 2025: dự kiến đến hết năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 72%, trong đó tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 36%3.
Xuất khẩu lao động là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, của tỉnh nhằm bảo đảm và góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho người lao động. Theo đó, các cơ sở đào tạo nghề trong tỉnh đã đóng góp vai trò là cầu nối, là kênh hỗ trợ thông tin tốt nhất, chính xác nhất cho sinh viên về thị trường xuất khẩu lao động, tiêu biểu, như: Trường Trung cấp nghề Quốc tế đã trở thành điểm sáng về hợp tác quốc tế, tư vấn xuất khẩu lao động cho học viên. Qua đó không chỉ mang lại cho người lao động mức lương xứng đáng mà còn có cơ hội tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh và tác phong lao động ở những nước tiên tiến phù hợp với định hướng chung của tỉnh.
Những năm qua, đoàn tuyển của tỉnh tham gia các kỳ thi, hội thi, hội thao cấp tỉnh, toàn quốc đều đạt kết quả cao, tiêu biểu là Trường Cao đẳng Cơ điện Việt Xô đã đạt thành tích cao trong các cuộc thi tay nghề các cấp. Từ năm 2014 đến nay, học sinh, sinh viên của Trường đã đạt 1 chứng chỉ nghề xuất sắc tại kỳ thi tay nghề thế giới, 4 huy chương vàng, 2 huy chương bạc, 1 huy chương đồng tại hội thi tay nghề khối ASEAN, 6 giải nhất, 3 giải nhì, 8 giải ba tại các cuộc thi tay nghề quốc gia. Chỉ số thành phần đào tạo lao động trong chỉ số năng lực cạnh tranh của tỉnh luôn nằm trong top 10 của cả nước. Việc hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin, kinh nghiệm với các nước, các tổ chức quốc tế luôn được cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh coi trọng nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nghề nhất là đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Các trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh cũng tập trung đẩy mạnh việc đào tạo gắn kết với doanh nghiệp, kết hợp với nhiều doanh nghiệp trong việc đưa học sinh, sinh viên đến trải nghiệm và thực hành, đồng thời liên kết trong việc tạo việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường. Tiêu biểu như ngành công nghiệp ô tô được nhận định là ngành đi đầu và kéo theo sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Vì vậy, nhiều sinh viên của Trường Cao đẳng Cơ điện Việt Xô sau khi tốt nghiệp đã được trang bị đầy đủ kiến thức, năng lực, sẵn sàng đảm nhiệm công việc chuyên môn có việc làm thu nhập ổn định tại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp ô tô.
Đào tạo nghề là giải pháp căn cơ nhất để tạo việc làm và tăng thêm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho lao động nông thôn. Nhiều lớp đào tạo nâng cao tay nghề cho các thợ thủ công mỹ nghệ đang làm việc tại các làng nghề đã được tổ chức. Trong đó, phải kể đến vai trò truyền nghề, dạy nghề của các nghệ nhân, đây là một trong những điều kiện tiên quyết để các làng nghề thay đổi tư duy sản xuất, nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm đã góp phần duy trì và phát triển nghề. Với phương thức lao động trong làng nghề truyền thống sống khỏe bằng nghề và bảo tồn, khôi phục, quảng bá tinh hoa văn hóacủa làng nghề đến với bạn bè quốc tế. Ngoài ra, các kỹ năng nghề được gắn với giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức kỷ luật, kỹ năng mềm, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ ngoại ngữ, kỹ năng số cho người học được các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chú trọng, tích hợp trong quá trình đào tạo. Kết quả của giáo dục nghề nghiệp đã góp phần quan trong hình thành đội ngũ lao động lành nghề, xây dựng giai cấp công nhân, nông dân hiện đại, lớn mạnh phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tỉnh cũng đã ban hành các cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân sử dụng lao động, doanh nghiệp có năng lực tham gia vào hoạt động giáo dục nghề nghiệp, nhất là hoạt động đào tạo nhân lực có tay nghề cao; qua đó giúp tăng cường hợp tác giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh và các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động trong đào tạo và sử dụng lao động kỹ thuật, tay nghề cao. Kết quả đến nay, đã cấp chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp cho 9 cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục với tổng số 53 nghề, trong đó: có 15 nghề trình độ trung cấp, 38 nghề sơ cấp và đào tạo thường xuyên4.
Đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo giáo dục nghề nghiệp được bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sắp xếp bố trí, kiện toàn theo yêu cầu đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và từng bước chuẩn hóa về trình độ, đáp ứng được yêu cầu đổi mới công tác quản lý giáo dục nghề nghiệp theo hướng hiện đại và tiếp cận chuẩn của các nước tiên tiến. Các hoạt động hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệpđược tăng cường; các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tích cực tìm kiếm các cơ hội giao lưu học tập kinh nghiệm, đàm phán, ký kết các chương trình hợp tác với đối tác nước ngoài trong việc hỗ trợ các nhà giáo, học sinh, sinh viên, người lao động nâng cao năng lực, kỹ năng nghề nghiệp; chủ động tiếp nhận các chương trình đào tạo tiên tiến được chuyển giao từ nước ngoài, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được là cơ bản và chủ yếu, công tác đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao của tỉnh Ninh Bình cũng còn một số tồn tại, hạn chế, như: chất lượng đào tạo của nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng được hết nhu cầu của thị trường lao động, nhất là đối với các lĩnh vực ngành nghề đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật cao. Cụ thể: “hiện nay trên địa bàn tỉnh, có 27 cơ sở giáo dục nghề nghiệp thì mới có 2 trường chất lượng cao trong mục tiêu đến năm 2025 có ít nhất 70% cơ sở giáo dục nghề nghiệp và 100% chương trình đào tạo các ngành, nghề trọng điểm đạt tiêu chuẩn kiểm định chất lượng; khoảng 100% chương trình đào tạo nghề được xây dựng trên cơ sở khối lượng kiến thức tối thiểu và yêu cầu về năng lực mà người học phải đạt được sau khi tốt nghiệp; có 3 trường đạt chất lượng cao; khoảng 20 ngành, nghề trọng điểm, trong đó có 1 đến 3 ngành, nghề có năng lực cạnh tranh trong các nước ASEAN” 5. Năng lực, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của một số ít giáo viên và cán bộ quản lý chưa đạt chuẩn theo yêu cầu. Cụ thể: “tính đến tháng 5/2023, toàn tỉnh có 816 nhà giáo, trong đó có 247 người có trình độ trên đại học, 407 người có trình độ đại học, 162 người trình độ cao đẳng, trung cấp và trình độ khác” 6. Cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy, thực hành nghề có nơi, có trường còn thiếu, lạc hậu; hệ thống chương trình, giáo trình chậm được đổi mới, cập nhật. Về cơ bản, “cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo nghề còn thiếu, chưa đáp ứng hết mục tiêu, yêu cầu của công tác đào tạo tại các trung tâm” 7.
Những hạn chế, yếu kém trên đây bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân khách quanvà chủ quan, trong đó là do nhận thức của nhiều cấp ủy, chính quyền, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp, người dân và cộng đồng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực có tay nghề cao chưa đầy đủ, thiếu thống nhất, cá biệt còn tư tưởng coi trọng bằng cấp. Công tác quản lý của các cấp các ngành ở tỉnh về giáo dục nghề nghiệp còn thiếu tập trung, chồng chéo, đầu tư dàn trải, kém hiệu quả. Công tác dự báo nhu cầu về nhân lực có tay nghề cao và quy hoạch hệ thống giáo dục nghề nghiệp của tỉnh chưa sát thực tế, thiếu gắn kết giữa đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý các sai phạm chưa thường xuyên, kém hiệu quả; chưa chú trọng kiểm định chất lượng đào tạo. Cơ chế, chính sách khuyến khích các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng tham gia đào tạo thiếu đồng bộ.
3. Đề xuất một số giải pháp
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức trách nhiệm cho các tổ chức, lực lượng, Nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp, đặc biệt là người đứng đầu cần xác định đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao; đưa công tác này vào trong nghị quyết, các chương trình, kế hoạch hoạt động hằng năm của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị và địa phương trên toàn tỉnh. Đồng thời, tỉnh cần coi trọng và phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, các cấp, các ngành, của cả hệ thống chính trị; nâng cao ý thức trách nhiệm, huy động sự tham gia tích cực, có hiệu quả của doanh nghiệp, người dân, toàn xã hội đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Cần lấy tín nhiệm của thị trường lao động đối với người học sau khi tốt nghiệp là tiêu chí, thước đo căn bản để đánh giá uy tín, chất lượng của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên toàn tỉnh.
Hai là, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát của các cấp, các ngành của tỉnh về đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Tỉnh cần sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tránh chồng chéo, gây lãng phí nguồn lực của địa phương. Quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực có tay nghề cao phải bảo đảm về số lượng và cơ cấu nghề nghiệp, gắn với quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh và nhu cầu sử dụng của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.Đồng thời, kiện toàn, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng kiểm định chất lượng đào tạo; tăng cường quản lý chương trình, nội dung và chất lượng giáo dục nghề nghiệp, nhất là đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, nâng cao trách nhiệm, phát huy vai trò của hội đồng nhà trường.
Đặc biệt, cần nâng cao năng lực dự báo nguồn nhân lực có tay nghề cao thuộc các lĩnh vực, ngành nghề, nhất là đối với các ngành, lĩnh vực mũi nhọn, công nghiệp hỗ trợ, các khu công nghiệp, khu chế xuất, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các sai phạm của cơ quan quản lý các cấp trong giáo dục nghề nghiệp và đào tạo nhân lực có tay nghề cao, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, đúng người, đúng việc.
Ba là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ chương trình, nội dung đào tạo nhân lực có tay nghề caotheo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nội dung, chương trình đào tạo nhân lực có tay nghề cao lại càng quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết. Theo đó, nội dung đào tạo nhân lực có tay nghề cao cần được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, nhất là kỹ năng thực hành và làm việc theo nhóm. Tăng cường giáo dục tác phong làm việc chuyên nghiệp, phẩm chất đạo đức để hình thành năng lực nghề nghiệp, nhân cách cho người học. Lựa chọn, áp dụng chương trình, tiêu chuẩn và công nghệ đào tạo tiên tiến của khu vực và quốc tế đối với một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, phù hợp với điều kiện của tỉnh và xu hướng hội nhập quốc tế của nước ta. Cần đa dạng hóa các phương thức và chương trình đào tạo nhân lực có tay nghề cao; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại các cơ sở sản xuất – kinh doanh. Bên cạnh đó, cần quan tâm chú trọng đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp; xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo nhân lực có tay nghề cao của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để các tổ chức, cá nhân sử dụng lao động tham gia đánh giá chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Bốn là, chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đào tạo nhân lực có tay nghề cao bảo đảm đủ về số lượng, chất lượng cao và có cơ cấu hợp lý.
Tỉnh cần xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, chuẩn hóa và có chính sách khuyến khích đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo nhân lực có tay nghề cao theo chuẩn trình độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Đồng thời, tăng cử cán bộ, giáo viên đi đào tạo ở nước ngoài theo diện chính sách nhà nước đối với nhà giáo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đào tạo nhân lực có tay nghề cao; khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Có chế độ ưu đãi và hình thức tôn vinh, khen thưởng đối với giáo viên và cán bộ quản lý đào tạo nhân lực có tay nghề cao đúng người, đúng việc, đúng thời điểm; chú trọng những nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực, quốc tế. Có chính sách khuyến khích nghệ nhân ở các làng nghề tích cực tham gia đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nhân lực có tay nghề cao trên toàn tỉnh.
Năm là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đa dạng hóa nguồn lực đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Tỉnh cần huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, kết hợp chặt chẽ giữa nội lực và ngoại lực; đặc biệt, cần tập trung đầu tư đồng bộ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ đào tạo đạt chuẩn quốc gia, khu vực, quốc tế. Chủ động, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao, các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế. Tỉnh cần tạo điều kiện thuận lợi để xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở trong nước và nước ngoài có uy tín tham gia. Có chính sách ưu đãi để doanh nghiệp đổi mới công nghệ sản xuất gắn với đào tạo, sử dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động, các chuyên gia quốc tế và người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào hoạt động đào tạo nhân lực có tay nghề cao. Thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng cấp độ quốc gia, khu vực, quốc tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn để được học nghề và khởi nghiệp.
Sáu là, chủ động và tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành phố trong nước và ngoài nước về đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Tỉnh cần xây dựng môi trường pháp lý, môi trường kinh tế thuận lợi để thu hút đầu tư trong và ngoàinước trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách hợp tác, coi trọng việc tham gia và thực hiện các cam kết về chất lượng đào tạo. Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin, kinh nghiệm với tỉnh thành trong và ngoài nước, với các tổ chức quốc tế; khuyến khích các cơ sở giáodục nghề nghiệp trong tỉnh mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích, động viên việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên của tỉnh đang học ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp do nước ngoài mở tại Việt Nam.
4. Kết luận
Việc tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và nhân lực có tay nghề cao nói riêng là nhiệm vụ quan trọng, lâu dài, là yêu cầu tất yếu khách quan đối với tỉnh Ninh Bình. Quá trình thực hiện thành công cần có sự kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được, kiên quyết, kiên trì khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế, đồng thời thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ, giải pháp trên mới bảo đảm đạt chất lượng và hiệu quả cao, góp phần tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nhanh, bền vững. Điều này sẽ sớm đưa Ninh Bình vươn lên trở thành cực tăng trưởng của các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Hồng, hướng tới trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, văn minh, hiện đại, có bản sắc riêng ngang tầm với đô thị di sản thiên niên kỷ trên thế giới.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5, 6, 7. Sở Lao động – Thương binh tỉnh Ninh Bình (2024). Báo cáo của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Bình về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng bộ tỉnh Ninh Bình khóa XXII (2020). Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020 – 2025.
2. Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình (2017). Nghị quyết số 28/2017/NQ-HĐND ngày 06/7/2017 về đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng tỉnh Ninh Bình đến năm 2020.
3. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định 218/2024/QĐ-TTg ngày 04/3/2024 phê duyệt Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
4. Tỉnh ủy Ninh Bình (2016). Nghị quyết 06-NQ/TU ngày 28/12/2016 về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
5. Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình (2015). Quyết định số 04/2015/QĐ-UBND ngày 06/3/2015 quy định chính sách ưu đãi về sử dụng đất đối với hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa – thể thao, môi trường, giám định tư pháp trên địa bàn tỉnh.
6. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/827302/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-theo-tinh-than-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx
7. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/12/05/phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-dap-ung-yeu-cau-phat-trien-dat-nuoc/
8. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/11/12/nang-cao-chat-luong-dao-tao-nguon-nhan-luc-so-dap-ung-yeu-cau-cua-nen-kinh-te-so-o-viet-nam-hien-nay/