Giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến chuyển đổi xanh

PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Mục tiêu tổng quát của kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 là hình thành hệ thống cơ cấu sản xuất, tiêu dùng bền vững, sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa nguyên liệu, vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế chất thải phát sinh và giảm tác động xấu đến môi trường; phát triển mạnh các mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh; tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động; phát triển các thực hành tốt, tạo dựng văn hóa và lối sống xanh, thúc đẩy tạo việc làm xanh và phát triển chuỗi giá trị mới trong lĩnh vực kinh tế tuần hoàn. Để thực hiện mục tiêu này, bài viết làm rõ thực trạng phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến chuyển đổi xanh và đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến chuyển đổi xanh ở Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Phát triển kinh tế tuần hoàn; chuyển đổi xanh; thực trạng; nguyên nhân; giải pháp.

1. Đặt vấn đề

Khái niệm về nền kinh tế tuần hoàn tuy vẫn còn tương đối mới ở Việt Nam nhưng đang nhanh chóng trở thành xu hướng và cũng được coi là biện pháp chính để đất nước đổi mới các mô hình tăng trưởng bền vững và đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn mang đến cơ hội đáng kể cho phát triển bền vững, không chỉ nhằm mục đích đạt được các mục tiêu kinh tế và xã hội mà còn giải quyết các thách thức về biến đổi khí hậu, hướng đến chuyển đổi xanh ở Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình này đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là khi đòi hỏi phải thay đổi tư duy, nhận thức và chiến lược để chuyển đổi dần cơ cấu kinh tế và thể chế hóa các chính sách và khuôn khổ pháp lý liên quan.

2. Khái quát kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi xanh

Kinh tế tuần hoàn là một mô hình tổ chức hoạt động kinh tế hiện đại có tính khép kín và liên hoàn của nhiêu đơn vị sản xuẩt gắn kết với nhau trên nguyên tắc “mọi thứ đều là đầu vào của sản phầm khác”, tận dụng hiệu quả dịch vụ kết nối (tài chính, logistics, công nghệ thông tin và truyền thông), hướng tới liên kết sản xuất có tính tuần hoàn, nhằm: tiết kiệm chi phí sản xuất và tối ưu hóa giá trị gia tăng trên cơ sở giảm thiểu chất thải trong quá trình sản xuất, hợp lý hóa quy trình đầu vào – đầu ra của các quy trình gắn với đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và thu nhập của người lao động, sản xuất và sử dụng hợp lý các dạng năng lượng tái tạo trong sản xuất và phục hồi tài nguyên có thể tái tạo được, thúc đẩy tiêu dùng bền vững, giảm phát thải và góp phần chống biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường1.

Kinh tế tuần hoàn (circular economy) là một mô hình kinh tế, trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ được tổ chức nhằm kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường, hướng tới việc tái sử dụng, sửa chữa, tân trang, tái chế và tái sản xuất các sản phẩm và vật liệu2. Phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và cải thiện năng suất lao động góp phần thúc đẩy chuyển đổi xanh gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng tăng cường hiệu quả, tính gắn kết tuần hoàn giữa các doanh nghiệp và ngành kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng chống chịu của doanh nghiệp và chuỗi cung ứng trước các cú sốc từ bên ngoài nhằm góp phần đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu.

Chuyển đổi xanh là một phương thức quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, đóng góp trực tiếp vào giảm phát thải khí nhà kính để hướng tới nền kinh tế trung hòa các-bon trong dài hạn. Chuyển đổi xanh lấy con người làm trung tâm, giúp giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của con người trước biến đổi khí hậu; khuyến khích lối sống có trách nhiệm của từng cá nhân đối với cộng đồng và xã hội, định hướng thế hệ tương lai về văn hóa sống xanh, hình thành xã hội văn minh, hiện đại, hài hòa với thiên nhiên và môi trường. Chuyển đổi xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, hệ thống quy hoạch quốc gia, chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực. Chuyển đổi xanh là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan, tổ chức liên quan, được thúc đẩy bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, bền vững3.

Kinh tế tuần hoàn được mô tả tốt nhất là hệ thống công nghiệp có khả năng phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó thay thế khái niệm “hết vòng đời” bằng phục hồi, chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng hóa chất độc hại, làm suy yếu khả năng tái sử dụng và hướng đến mục tiêu loại bỏ chất thải thông qua thiết kế vượt trội về vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong đó là các mô hình kinh doanh. Mô hình kinh tế tuần hoàn cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên và giảm tác động môi trường đến vốn tự nhiên bằng cách thiết kế sản phẩm theo cách có thể tái chế nhiều hơn, áp dụng công nghệ hiệu quả và biến chất thải thành tài nguyên. Mô hình tăng trưởng tuần hoàn, tách biệt khỏi việc tiêu thụ tài nguyên hữu hạn và có khả năng cung cấp các hệ thống kinh tế phục hồi, ngày càng được coi là làn sóng phát triển tiếp theo4.

3. Thực trạng phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến chuyển đổi xanh ở Việt Nam hiện nay

Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế tuần hoàn trong tiến trình phát triển bền vững của đất nước, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII khẳng định quyết tâm xây dựng nền kinh tế xanh, tuần hoàn thân thiện với môi trường cùng lộ trình, cơ chế, chính sách hình thành mô hình kinh tế tuần hoàn. Theo Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách tài nguyên và môi trường (ISPONRE), Việt Nam đã đưa kinh tế tuần hoàn vào Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn liên quan, trở thành một trong những quốc gia tiên phong trong ASEAN5.

Thời gian qua, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện các biện pháp phân loại rác thải tại nguồn, xử lý rác thải, chất thải, tăng cường tái sử dụng, tái chế, giảm thiểu chôn lấp rác thải. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT-BTNMT ngày 10/01/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, thực hiện khoản 5 Điều 79 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Công văn số 9368/BTNMT-KSONMT ngày 02/11/2023 hướng dẫn kỹ thuật về phân loại chất thải rắn sinh hoạt.

Thực tế cho thấy, những nhân tố bảo đảm cho việc thực hiện phân loại chất thải rắn sinh hoạt có ý nghĩa, hiệu quả, thành công, như: bố trí mặt bằng điểm tập kết, trạm trung chuyển; quy hoạch, bố trí quỹ đất cho khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt đến bố trí kinh phí đầu tư trang thiết bị công cộng, cơ sở hạ tầng hỗ trợ thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt sau khi phân loại và lựa chọn đơn vị thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt đều do Ủy ban nhân dân các cấp chịu trách nhiệm theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

Sự quan tâm của các cấp, các ngành, ý thức của người dân và của xã hội đối với công tác tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ngày càng được nâng lên. Nhiều dự án tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt có thu hồi năng lượng đã nhận được ưu đãi, hỗ trợ theo quy định. Theo đó, công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt có nhiều chuyển biến tích cực, hệ thống văn bản để quản lý, thu gom, phân loại, tái chế, tái sử dụng chất thải rắn sinh hoạt đã được ban hành đồng bộ. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, tái chế liên tục tăng, tỷ lệ phải chôn lấp trực tiếp chất thải rắn sinh hoạt giảm dần theo từng năm. Về cơ sở xử lý và công nghệ xử lý hiện nay, toàn quốc có khoảng 1.456 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, trong đó có 7 cơ sở đốt chất thải rắn phát điện; 476 cơ sở đốt chất thải rắn sinh hoạt không phát điện. Theo số liệu năm 2019 có 70% chất thải rắn sinh hoạt được chôn lấp, con số này hiện đã giảm xuống còn khoảng 64%6.

Một số thách thức trong phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến chuyển đổi xanh hiện nay đang gặp là do nhận thức về kinh tế tuần hoàn nói chung và mô hình kinh tế tuần hoàn nói riêng vẫn còn hạn chế đối với toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân. Kinh tế tuần hoàn vẫn là vấn đề mới đối với hầu hết các doanh nghiệp, đối tượng chính trong việc triển khai mô hình này.

Bên cạnh đó còn có sự thiếu thống nhất, chưa đồng bộ giữa các quy định pháp luật, nhất là giữa Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật Xây dựng,… trong các quy định liên quan đến phát triển kinh tế tuần hoàn. Hiện nay cũng chưa có tiêu chí nhận dạng kỹ thuật mô hình kinh tế tuần hoàn và các quy định, hướng dẫn áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn cụ thể cho mỗi loại hình doanh nghiệp và ngành. Ngay cả việc đưa nội dung kinh tế tuần hoàn vào quy hoạch, kế hoạch, lộ trình thực hiện liên quan đến doanh nghiệp vẫn là một trở ngại lớn.

Các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và trở ngại trong triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với yêu cầu tái cơ cấu hoạt động sản xuất, kinh doanh, thiết kế lại quy trình, tăng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng và kéo dài vòng đời sản phẩm, thu hồi chất thải công nghệ, tái sử dụng, tái chế hoặc bảo đảm đầu vào cho hoạt động sản xuất khác; trong khi còn nhiều hạn chế về mặt bằng, công nghệ, kết nối và nhân lực triển khai chuỗi, mạng lưới sản xuất khép kín trong mô hình kinh tế tuần hoàn.

Quy hoạch và kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp thiếu sự đồng bộ và tính liên kết cho phát triển kinh tế tuần hoàn. Công tác thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp cũng chưa xuất phát từ yêu cầu và đặc điểm của mô hình kinh tế tuần hoàn. Hầu hết các khu công nghiệp và khu kinh tế trên cả nước hiện mang dáng dấp đại công trường thủ công xưa kia, nơi tập hợp các loại hình doanh nghiệp ít gắn kết về công nghệ và sản phẩm với nhau đã tạo thách thức lớn trong việc áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn là đòi hỏi đầu tư lớn vào kết cấu hạ tầng thu gom, phân loại và tái chế rác thải; bảo đảm hài hoà các chi phí và các lợi ích từ thu hồi và tái chế, tái sử dụng chất thải trong chu kỳ sản xuất; mở rộng nhu cầu về các sản phẩm tuần hoàn và các sản phẩm thay thế; thu hút được sự tham gia từ những chuyên gia có trình độ, kỹ thuật để thực hiện mô hình kinh tế mới này. Các mô hình sản xuất, kinh doanh theo nền kinh tế tuần hoàn hiện chưa phổ biến; đa số các doanh nghiệp vẫn đang hoạt động theo logic nền kinh tế tuyến tính, tập trung vào việc tạo ra giá trị ngắn hạn trong khi kinh tế tuần hoàn là mô hình tạo ra giá trị dài hạn7.

4. Một số giải pháp

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về kinh tế tuần hoàn, yêu cầu, chủ trương và định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở các cấp, cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Tuyên truyền để người dân thay đổi tư duy tiêu dùng theo hướng sử dụng các sản phẩm hàng hóa thân thiện với môi trường, các sản phẩm dán nhãn CE (là các sản phẩm đã được đánh giá và kiểm định trước khi đưa ra thị trường và sản phẩm này hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu của các nước thành viên EU về an toàn sức khỏe và môi trường).

Nâng cao ý thức về phân loại rác thải tại nguồn nhằm giảm chi phí trong việc sử dụng và tái chế rác thải; đưa vào chương trình giáo dục – đào tạo ở các cấp học những kiến thức về kinh tế tuần hoàn nhằm cung cấp những tri thức cơ bản về kinh tế tuần hoàn và đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với đổi mới sáng tạo và sử dụng công nghệ cao. Đồng thời, có chính sách khen thưởng rõ ràng những tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định về bảo đảm phát triển bền vững; tăng cường sự tham gia của Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Hội Sinh viên, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ và cộng đồng dân cư; bảo đảm sự phối hợp các hoạt động của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và cộng đồng doanh nghiệp cũng như báo chí, truyền thông…8.

Nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng và phát triển các thực hành tốt về thực hiện kinh tế tuần hoàn, bao gồm: truyền thông, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức pháp luật về thực hiện kinh tế tuần hoàn; lồng ghép các nội dung giáo dục về kinh tế tuần hoàn vào chương trình giáo dục các cấp học, bậc học; xây dựng, vận hành nền tảng kết nối thông tin, chia sẻ dữ liệu về áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn9.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và các quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, quản lý và tái sử dụng, tái chế chất thải cho phát triển kinh tế tuần hoàn; thực hiện lồng ghép kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển; xây dựng hệ thống các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá kết quả thực hiện kinh tế tuần hoàn phù hợp với ngành, lĩnh vực, sản phẩm và địa bàn được giao quản lý; xây dựng cơ sở dữ liệu về kinh tế tuần hoàn gắn với chuyển đổi kinh tế số; tăng cường đầu tư nghiên cứu khoa học, phát triển ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản xuất thiết bị, đào tạo nhân lực và cung cấp nền tảng chia sẻ thông tin, dữ liệu về kinh tế tuần hoàn.

Phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế tuần hoàn tại các lĩnh vực, địa bàn cụ thể thuộc thẩm quyền. Ưu tiên xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học về kinh tế tuần hoàn làm cơ sở đề xuất, xây dựng và hoàn thiện các chính sách kinh tế tuần hoàn, phù hợp với các chương trình, chính sách hiện hành có liên quan, như: chương trình quốc gia về sản xuất tiêu dùng bền vững giai đoạn 2025 – 2030; nghị định về phát triển ngành Công nghiệp môi trường… Rà soát, hoàn thiện khung chính sách và pháp lý nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế tuần hoàn. Nghiên cứu, rà soát thực trạng phát triển kinh tế tuần hoàn trong một số lĩnh vực ưu tiên/có thể thí điểm triển khai sớm. Có cơ chế, chính sách thu hút và sử dụng đầu tư, phát triển nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế tuần hoàn. Hoàn thiện cơ chế phát triển công nghiệp và dịch vụ môi trường10.

Hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để khuyến khích thực hiện kinh tế tuần hoàn. Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện kinh tế tuần hoàn. Tổ chức xây dựng, ban hành kế hoạch hành động, lồng ghép kinh tế tuần hoàn vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển, quản lý chất thải của các bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương. Hoàn thiện các quy định pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để khuyến khích thực hiện kinh tế tuần hoàn11.

Ba là, thúc đẩy hợp tác, liên kết cộng sinh công nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý khu công nghiệp và khu kinh tế; phát triển thị trường tái sử dụng sản phẩm thải bỏ, tái chế chất thải; khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn, sản xuất, kinh doanh gắn liền với bảo vệ môi trường. Quy định chặt chẽ về trách nhiệm của doanh nghiệp với chất thải do doanh nghiệp tạo ra. Tăng cường trao đổi, học hỏi và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam những kinh nghiệm quốc tế, nhất là mô hình của các quốc gia đã và đang thực hiện thành công phát triển công nghệ sạch, tái sử dụng, tái chế chất thải như một nguồn tài nguyên.

Chủ động và tích cực tham gia cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững; phối hợp giải quyết những vấn đề toàn cầu và khu vực (liên quốc gia): giảm phát thải các bon; ô nhiễm nguồn nước, không khí; khai thác rừng; đập thủy điện; những vấn đề xã hội như di dân, xuất khẩu lao động… Chủ động trao đổi với các nhà tài trợ nước ngoài, các tổ chức quốc tế để tìm kiếm cơ hội tiếp cận tri thức, kỹ năng và nguồn lực phát triển kinh tế tuần hoàn thông qua các dự án thử nghiệm cụ thể về kinh tế tuần hoàn, các dự án về công nghệ, dịch vụ (công nghệ thông tin, môi trường…) thân thiện với kinh tế tuần hoàn.

Tăng cường đối thoại công – tư về phát triển kinh tế tuần hoàn, trên cơ sở phát huy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu, vướng mắc của doanh nghiệp, từ đó có biện pháp tháo gỡ, hỗ trợ phù hợp hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, tháo gỡ, hỗ trợ ở mức độ phù hợp12.

Bốn là, tăng cường nghiên cứu, xây dựng kế hoạch và lộ trình thu thập, sử dụng, phân tích thông tin nhằm hỗ trợ các ứng dụng, giải pháp công nghệ thông tin và truyền thông toàn diện, hài hòa gắn với mô hình kinh tế tuần hoàn. Hỗ trợ hình thành, phát triển thị trường cho các hàng hóa, dịch vụ liên quan đến kinh tế tuần hoàn. Hỗ trợ thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Trong đó, hỗ trợ thực hiện thiết kế sinh thái để đạt tiêu chí của kinh tế tuần hoàn; hỗ trợ áp dụng, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh.

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ số, công nghệ thân thiện với môi trường, kỹ thuật hiện có tốt nhất để thực hiện kinh tế tuần hoàn; hỗ trợ hình thành và phát triển thị trường cho các hàng hóa, dịch vụ liên quan đến kinh tế tuần hoàn. Thúc đẩy thực hiện kinh tế tuần hoàn trong hoạt động tiêu dùng, bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng. Tăng cường quản lý chất thải để thực hiện kinh tế tuần hoàn. Trong đó, thí điểm, nhân rộng và phát triển các mô hình quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn; thúc đẩy đầu tư, hỗ trợ quản lý chất thải để thực hiện kinh tế tuần hoàn13.

Chú thích:
1. Chính phủ (2023). Dự thảo Nghị định của Chính phủ về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn.
2. Kinh tế tuần hoàn là gì?. https://thuvienphapluat.vn/lao-dong-tien-luong/kinh-te-tuan-hoan-la-gi-vi-du-vekinh-te-tuan-hoan-chuyen-vien-ve-quan-ly-kinh-te-doi-ngoai-lam-cong-31302.html.
3, 12. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050.
4. Circular economy. https://www.greenpolicyplatform.org/themes/circular-economy
5. Circular economy a solution for sustainable development. https://special.vietnamplus.vn/2024/02/22/circular-economy-a-solution-for-sustainable-development.
6. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2024). Báo cáo số 251/BC-BTNMT ngày 18/10/2024 về việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về chất vấn, các vấn đề đã hứa liên quan đến lĩnh vực tài nguyên và môi trường.
7, 8. Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn. https://dangcongsan.vn/phat-trien-kinh-te-xanh-ly-luan-va-thuc-tien/co-hoi-va-thach-thuc-trong-chuyen-doi-xanh-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan-671256.html, ngày 02/7/2024.
9, 13. Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035. https://baochinhphu.vn/ke-hoach-hanh-dong-quoc-gia-thuc-hien-kinh-te-tuan-hoan-den-nam-2035-102250123164253261.htm
10. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 687/QĐ-TTg ngày 07/6/2022 phê duyệt Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
11. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 23/01/2025 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035.