NCS. Trần Văn Trung
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Nghiên cứu làm rõ tư tưởng của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước, đặc biệt qua “Chính sách Kinh tế Mới” (NEP) và vận dụng sáng tạo vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tư tưởng này nhấn mạnh vai trò của chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thúc đẩy lực lượng sản xuất, hài hòa các thành phần kinh tế và tạo nền tảng cho chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp như tăng cường hợp tác công tư, cải cách doanh nghiệp nhà nước, phát triển kinh tế tư nhân và hợp tác xã, thu hút đầu tư nước ngoài bền vững, đồng thời hoàn thiện khung pháp lý minh bạch. Việc vận dụng tư tưởng của Lênin giúp Việt Nam đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội góp phần xây dựng nền kinh tế bền vững và hội nhập quốc tế.
Từ khóa: Chủ nghĩa tư bản nhà nước, kinh tế thị trường, Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc vận dụng sáng tạo các tư tưởng của các nhà kinh điển Mác-Lênin vào thực tiễn của mỗi quốc gia luôn đóng vai trò quan trọng. Tư tưởng của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sau thành công của Cách mạng Tháng Mười, Lênin đã đề xuất “Chính sách Kinh tế Mới” (NEP) nhằm thay thế “Chính sách Cộng sản thời chiến”. Trong chính sách này, ông nhấn mạnh vị trí và vai trò quan trọng của chủ nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ chiến lược trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Với cách tiếp cận linh hoạt trong thời kỳ quá độ, đã trở thành một nền tảng lý luận sâu sắc, đặc biệt đối với những quốc gia có nền kinh tế lạc hậu.
Ở Việt Nam, trong bối cảnh đổi mới từ năm 1986, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được lựa chọn là mô hình phát triển kinh tế nhằm kết hợp tăng trưởng kinh tế với mục tiêu công bằng xã hội. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều thách thức lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế tư nhân. Việc nghiên cứu tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước và sự áp dụng vào mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ giúp hiểu rõ hơn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế mà còn cung cấp cơ sở khoa học cho các giải pháp phát triển bền vững.
2. Tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước
V.I. Lênin, nhà cách mạng và lý luận kiệt xuất đã có những đóng góp to lớn trong việc bổ sung và phát triển các tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, đặc biệt trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Nga. Tư tưởng và di sản lý luận của Lênin không chỉ là tài sản quý giá đối với phong trào cộng sản quốc tế mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam. Một trong những đóng góp quan trọng của ông chính là việc khởi xướng “Chính sách Kinh tế Mới”.
Trong thời kỳ nội chiến, chính quyền Xô-viết đã áp dụng “Chính sách Cộng sản thời chiến” với các biện pháp mạnh mẽ như tập trung hóa toàn bộ nền kinh tế dưới sự kiểm soát của nhà nước, phân phối tài nguyên theo nguyên tắc bình quân và thực hiện chế độ trưng thu lương thực dư thừa. Những biện pháp này đã giúp chính quyền Xô-viết non trẻ đủ sức vượt qua những thách thức của nội chiến và đánh bại các thế lực thù địch. Tuy nhiên, sau khi nội chiến kết thúc, hậu quả kéo dài của chính sách này đã khiến nền kinh tế Nga lâm vào khủng hoảng trầm trọng: sản xuất nông nghiệp suy giảm, công nghiệp đình đốn do thiếu hụt nhiên liệu và lương thực; đời sống nhân dân lao động ngày càng khốn khó, dẫn đến sự giảm sút lòng tin vào Đảng và chính quyền Xô-viết. Thậm chí, ở một số khu vực, đã xảy ra các cuộc nổi dậy của nông dân.
Trong bối cảnh nước Nga lúc đó, theo nhận định của Lênin là một nước lạc hậu về kinh tế, một nước tiểu nông muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội cần có hai điều kiện: (1) Sự ủng hộ kịp thời của cách mạng một nước hay một số nước tiên tiến; (2) Sự thỏa thuận giữa chuyên chính vô sản với đại đa số nông dân1. Vì nước Nga Xô viết không có điều kiện thứ nhất cho nên phải lôi kéo nông dân bằng một liên minh kinh tế mới khác chính sách thời chiến, đó chính là “chính sách kinh tế mới”, Lênin đã từng nói: “trong một nước nghèo, giai cấp vô sản không thể tự mình xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà phải mượn sức của các giai cấp khác”2.
Những vấn đề liên quan đến “Chính sách Kinh tế Mới” của Lênin được trình bày trong các tài liệu và bài viết quan trọng, bao gồm: “Đề cương báo cáo về sách lược của Đảng Cộng sản Nga trình bày tại Đại hội III của Quốc tế Cộng sản (dự thảo)”, diễn văn bế mạc tại Hội nghị Đại biểu Toàn Nga lần thứ X của Đảng Cộng sản (b) Nga, trong các bài viết như “Kỷ niệm lần thứ tư cuộc Cách mạng Tháng Mười”, “Về tác dụng của vàng hiện nay và sau khi chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi”, và lần phát biểu cuối cùng của Lênin tại phiên họp của Xô-viết Moskva ngày 20/11/1922.
Nội dung cốt lõi của NEP bao gồm: thay thế chế độ trưng thu lương thực thừa bằng thuế lương thực, cho phép tự do buôn bán và sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua các hình thức như tô nhượng. Việc triển khai NEP trong bối cảnh Nga Xô-viết thời kỳ đó dẫn đến sự xuất hiện tất yếu của các thành phần kinh tế khác nhau, cùng với tính chất đan xen và phức tạp trong cấu trúc kinh tế. Trong đó, Lênin xác định các thành phần kinh tế ở nước Nga tiểu nông, như sau: (1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, nghĩa là một phần lớn có tính chất tự nhiên; (2) Sản xuất hàng hóa nhỏ; (3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân; (4) Chủ nghĩa tư bản nhà nước; (5) Chủ nghĩa xã hội3. Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một yếu tố cốt lõi trong Chính sách Kinh tế Mới được V.I. Lênin khởi xướng và chỉ đạo thực hiện nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Nga Xô Viết vào đầu những năm 20, thế kỷ XX.
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa tư bản nhà nước là hệ thống các chính sách, công cụ và biện pháp nhằm quản lý và điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp tư bản còn tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của hệ thống này là vừa khai thác hiệu quả tiềm năng của các thành phần kinh tế tư bản và sản xuất nhỏ, vừa thực hiện quá trình cải tạo chúng theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nghĩa hẹp, chủ nghĩa tư bản nhà nước được hiểu là một thành phần kinh tế bao gồm các tổ chức kinh tế được hình thành từ sự hợp tác, liên doanh hoặc đầu tư giữa tư bản trong nước hoặc nước ngoài với các doanh nghiệp quốc doanh hoặc với nhà nước. Lênin cho rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước là điều “đáng mong đợi” bởi vì thông qua việc áp dụng mô hình chủ nghĩa tư bản nhà nước, nhà nước công nhân có thể thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện gia tăng nhanh chóng sản lượng hàng hóa trong thời gian ngắn, từ đó đáp ứng kịp thời những nhu cầu cấp thiết của tầng lớp nông dân.
Điều này đã được Lênin kết luận: “Trong một nước bị tàn phá chưa từng thấy, mà tuyệt đại đa số lại là nông dân và cũng bị phá sản nếu không có sự giúp đỡ của tư bản (tất nhiên là giúp đỡ ta thì chúng sẽ bóp nặn ta lấy những số lời quá mức) thì không thể giữ vững được chính quyền vô sản”4. Lênin cũng chỉ ra rằng: “chủ nghĩa tư bản nhà nước, đó là một thứ chủ nghĩa tư bản hết sức bất ngờ mà tuyệt đối chẳng có một ai đã dự kiến cả; vì không một ai có thể dự kiến rằng giai cấp vô sản sẽ lên nắm chính quyền ở một nước chậm tiến nhất, rằng giai cấp đó lúc đầu sẽ tìm cách tổ chức sản xuất lớn và việc phân phối cho nông dân, nhưng sau đó, do những điều kiện văn hóa nên không thể hoàn thành được nhiệm vụ đó, giai cấp vô sản buộc phải để chủ nghĩa tư bản tham gia vào sự nghiệp của mình”5.
Trả lời cho câu hỏi giai cấp vô sản để cho chủ nghĩa tư bản tham gia vào sự nghiệp của mình như thế nào, Lênin cho rằng: Chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chúng ta nói đó là một thứ chủ nghĩa tư bản mà chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới hạn; chủ nghĩa tư bản nhà nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là công nhân, chính là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiên phong, là chúng ta”6.
Theo nghiên cứu của Phan Xuân Sơn (2002) những hình thức mà chủ nghĩa tư bản tham gia trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là: (1) Tô nhượng đối với tư bản nước ngoài; (2) Kinh tế tư bản nhà nước đối với tư bản trong nước; (3) Kinh tế hợp tác xã (7).
Tô nhượng theo Lênin là hình thức hoạt động kinh tế khi “chính quyền nhà nước xã hội chủ nghĩa giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình: nhà máy, vật liệu, hầm mỏ; nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết, là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa và thu lợi nhuận do tư bản mà mình bỏ ra, rồi nộp cho nhà nước xã hội chủ nghĩa một phần sản phẩm”8 ông cũng nhấn mạnh: “tô nhượng không đáng sợ nếu chúng ta chỉ giao cho những người được tô nhượng một vài nhà máy còn đa số nhà máy thì vẫn giữ lại”9.
Đối với kinh tế tư nhân, Lênin đề xuất, đối với các quốc gia có nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ như Nga, phương pháp hiệu quả nhất để thúc đẩy sự phát triển kinh tế là khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế tiểu tư sản và tư bản tư nhân. Tuy nhiên, cần định hướng các thành phần này vào con đường của chủ nghĩa tư bản nhà nước, tạo tiền đề để tiến hành chuyển đổi sang chủ nghĩa xã hội trong tương lai một cách bền vững. Chủ nghĩa tư bản tư nhân đóng vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội không có gì là trái ngược cả: “tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh khỏi được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản”10.
Lênin nhận định rằng, hợp tác xã là công cụ tối ưu cho việc lưu thông kinh tế, khi cho rằng: “Cơ chế phân phối hiệu quả nhất mà chủ nghĩa tư bản để lại cho chúng ta chính là hợp tác xã, và chúng ta cần phải bảo vệ cơ chế này”. Ông cũng khẳng định, hợp tác xã đóng vai trò cốt yếu trong quá trình tiến tới chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia có đa số dân cư là nông dân: “Khi số lượng người tham gia hợp tác xã đạt đến một mức độ nhất định, chủ nghĩa xã hội sẽ tự động được thực thi”.
Trong hoàn cảnh Nga vào những năm 20 của thế kỷ XX, Lênin nhận định, chủ nghĩa tư bản nhà nước là một mô hình kinh tế tiên tiến hơn so với các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ. Nguyên nhân là các yếu tố kinh tế – xã hội chủ nghĩa khi ấy chỉ mới ở giai đoạn sơ khai, đóng vai trò như nền tảng cho sự phát triển của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thực sự. Dựa trên thực tiễn đó, Lênin đã đưa ra một nguyên lý quan trọng mà ông gọi là “chân lý”. “Thực tế, trước tiên nên triển khai chủ nghĩa tư bản nhà nước và sau đó mới tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
3. Vận dụng tư tưởng của Lênin vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Mặc dù điều kiện thế giới ngày nay đã có những thay đổi quan trọng, nước ta cũng có những đặc điểm khác so với nước Nga trong thời kỳ NEP, nhưng những lý luận mà Lênin đưa ra về chủ nghĩa tư bản nhà nước còn mang tính thời sự. Các vấn đề về đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp vừa và nhỏ, hợp tác xã, giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân, doanh nghiệp nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường…là những vấn đề cấp thiết của Việt Nam hiện nay.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng về chủ nghĩa tư bản nhà nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn trong thời gian qua, Đại hội VIII đã chỉ rõ: “Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và hợp tác liên danh giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức, quản lý…của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ cũng như công cược xây dựng và phát triển đất nước”11.
Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động. Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng”12. Quan điểm này tiếp tục được phát huy và khẳng định trong các kỳ đại hội về sau khi coi kinh tế tư nhân là một trong những thành phần kinh tế của Việt Nam và xác định thành phần kinh tế tư nhân là động lực phát triển của nền kinh tế. Việc vận dụng tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay đòi hỏi một cách tiếp cận khoa học và hợp lý nhằm tối ưu hóa vai trò của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ.
Một là, cần tăng cường hợp tác giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân thông qua các hình thức liên doanh, liên kết và hợp tác công – tư, đặc biệt trong các lĩnh vực chiến lược như hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ và công nghệ cao. Đồng thời, cải cách doanh nghiệp nhà nước cần được đẩy mạnh theo hướng tập trung vào các ngành mũi nhọn, tăng cường cổ phần hóa một cách minh bạch và hiệu quả, bảo đảm quyền lợi của Nhà nước và người lao động. Hợp tác xã kiểu mới cần được phát triển dựa trên ứng dụng khoa học – công nghệ và gắn với chuỗi giá trị toàn cầu, vừa bảo đảm lợi ích kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu xã hội.
Hai là, cần khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển không giới hạn về quy mô trong khuôn khổ pháp luật, đồng thời định hướng khu vực này tham gia các dự án bền vững và các ngành công nghiệp tiên tiến. Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, cần học tập mô hình “tô nhượng” của Lênin để thu hút vốn và công nghệ nước ngoài một cách bền vững; đồng thời, tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước nhằm gia tăng giá trị nội địa. Các công cụ điều tiết kinh tế, như: thuế, tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật cần được sử dụng linh hoạt để bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa các thành phần kinh tế, đồng thời, ngăn chặn các hành vi lạm dụng chính sách.
Ba là, việc hoàn thiện khung pháp lý minh bạch và nhất quán là điều kiện cần thiết để bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thực hiện mục tiêu công bằng xã hội.
4. Kết luận
Tư tưởng của V.I. Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước không chỉ là một nền tảng lý luận quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà còn mang tính thời sự sâu sắc đối với Việt Nam trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Lênin đã chỉ ra rằng, việc kết hợp giữa Nhà nước và các thành phần kinh tế tư bản dưới sự kiểm soát và định hướng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một phương tiện hiệu quả để thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế và tạo tiền đề cho sự chuyển đổi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh Việt Nam, việc vận dụng tư tưởng này đã được thể hiện thông qua các chủ trương, chính sách phù hợp, đặc biệt là trong việc thúc đẩy hợp tác công tư, phát triển kinh tế tư nhân và kinh tế hợp tác xã, cải cách doanh nghiệp nhà nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Những định hướng này không chỉ tận dụng hiệu quả tiềm năng của các thành phần kinh tế mà còn bảo đảm sự phát triển bền vững, hài hòa, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội.
Tuy nhiên, để tiếp tục vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin vào thực tiễn, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao năng lực quản lý nhà nước và tăng cường hợp tác quốc tế. Chỉ khi các thành phần kinh tế được định hướng và hỗ trợ phát triển một cách hài hòa trong khuôn khổ pháp luật và định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam mới có thể phát triển bền vững và thực hiện thành công mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Chú thích:
1. Khổng Doãn Hợi, Vũ Hữu Ngoạn (1992). Về kinh tế tư bản nhà nước: nghiên cứu chủ nghĩa chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tạp chí Thông tin lý luận, Số 12, 1992. tr.2.
2. Trần Đình Thiên (1995). Một số vấn đề về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tạp chí Cộng sản, 1995, số 481. tr. 25.
3, 4. Lênin toàn tập (1978). Tập 43. NXB Tiến bộ tr. 218, 82.
5, 6, 8, 9, 10. Lênin toàn tập (1978). Tập 45. NXB Tiến bộ, tr. 101, 311, 269, 270, 267.
7. Phan Xuân Sơn (2002). Quan điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước – bước phát triển mới của Lý luận về chủ nghĩa xã hội: khai thác di sản kinh điển. Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2002, tr. 26.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 95.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. H.NXB Chính trị quốc gia, tr. 191.