ThS. Hoàng Thị Châu Yên
Trường Chính trị Trường Chinh tỉnh Nam Định
(Quanlynhanuoc.vn) – Để xây dựng một nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp thì cải cách hành chính, trong đó có chuyển đổi số là hướng đi tất yếu. Những năm qua, Chình phủ đã thực hiện quyết liêỵ, hiệu quả chính phủ điện tử, chính phủ số; đồng thời, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành, địa phương thực hiện chính quyền số, thành phố thông minh. Cùng với cả nước, tỉnh Nam Định cũng đã đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số.
Từ khóa: Kiểm soát của Chính phủ, chuyển đổi số, chính phủ số, chính quyền số, tỉnh Nam Định.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: nền hành chính nhà nước phải phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Chính phủ, đề cao tính chủ động, sáng tạo, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, công cụ kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia. Do đó, việc nâng cao năng lực phản ứng chính sách, kiểm soát của Chính phủ đối với nền hành chính quốc gia và việc thực hiện quyền lập pháp, đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng địa phương và các bộ, ngành có ý nghĩa rất quan trọng hiện nay.
2. Cải cách hành chính quyết định đến việc thực hiện chuyển đổi số quốc gia
Hiện đại hóa nền hành chính, thực hiện chuyển đổi số quốc gia đang là một trong những nội dung được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Tổng Bí thư Tô Lâm đã có chỉ đạo, định hướng trong bài viết: “Chuyển đổi số – Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”. Trong giai đoạn hiện nay, chuyển đổi số là một trong 3 trụ cột chiến lược, được xem là kim chỉ nam cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới(chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế bền vững và tinh thần, khát vọng dân tộc). Trong đó, chuyển đổi số là một xu thế không thể đảo ngược, là con đường tất yếu để thúc đẩy năng lực sản xuất, quản trị xã hội và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để thực hiện chuyển đổi số đồng bộ, hiệu quả từ trung ương đến địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các văn bản chỉ đạo, cụ thể là: Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng năm 2030; Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 146/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 phê duyệt Đề án nâng cao nhận thức, phổ cập kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 505/QĐ-TTg ngày 22/4/2022 về Ngày Chuyển đổi số quốc gia và nhiều văn bản khác.
Chính phủ thường xuyên thanh tra, kiểm tra, tổ chức hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết, tổng kết hằng năm về chuyển đổi số ở các địa phương. Bên cạnh hoạt động thanh tra trực tiếp kết hợp với cơ chế kiểm soát từ xa, thông qua nắm bắt, khai thác dữ liệu về cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra từ hệ thống cơ sở dữ liệu dùng chung. Việc kiểm soát giúp cho người quản lý nhìn nhận toàn diện, có thể phát hiện sớm những thiếu sót, khuyết điểm để kịp thời chấn chỉnh. Điều này tác động trực tiếp đến hoạt động kiểm soát của Chính phủ đối với nền hành chính nói chung và công cuộc chuyển đổi số được thực hiện toàn diện và hiệu quả hơn.
Tại Phiên họp lần thứ 8 của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số đã nêu “3 tăng cường” là: tăng cường nhận thức vai trò của chuyển đổi số đến từng người dân, doanh nghiệp, nhất nêu cao là vai trò của người đứng đầu; tăng cường tiềm lực cho chuyển đổi số, xem đây là nhiệm vụ trọng tâm cần phải ưu tiên bố trí nguồn lực; tăng cường hợp tác công tư, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư, kích hoạt mọi nguồn lực xã hội cho chuyển đổi số. “5 đẩy mạnh” là: đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý đầy đủ thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số; đẩy mạnh phát triển hạ tầng số, nền tảng số tạo tiền đề quan trọng cho phát triển kinh tế số; đẩy mạnh tạo lập dữ liệu số, phát triển dịch vụ số, bảo đảm kết nối, liên thông, chia sẻ liên tục, thông suốt, đồng bộ; đẩy mạnh phát triển nhân lực số, kỹ năng số đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; đẩy mạnh an ninh mạng, an toàn thông tin để bảo vệ chủ quyền không gian mạng quốc gia từ sớm, từ xa.
Chính phủ ưu tiên các nguồn lực, bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ được giao tại Chương trình chuyển đổi số quốc gia với 3 chiến lược: phát triển Chính phủ số; phát triển kinh tế số và xã hội số; phát triển dữ liệu số. Trong đó, khẩn trương xử lý các nhiệm vụ quá hạn, tồn đọng trong giai đoạn 2022-2023.
3. Một số kết quả chuyển đổi số ở tỉnh Nam Định
Ngày 15/10/2021, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU nhằm triển khai thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số quốc gia. Đến nay, Nam Định trở thành tỉnh đầu tiên của cả nước triển khai chữ ký số chuyên dùng từ Chính phủ đến cấp xã và hoàn thành việc gửi nhận văn bản điện tử 4 cấp. Nam Định là 1 trong 7 tỉnh đầu tiên của cả nước hoàn thành chỉ tiêu cung cấp 40% thủ tục hành chính trực tuyến mức 4 (nay là dịch vụ công trực tuyến toàn trình) vào tháng 7/2020 và là 1 trong 3 tỉnh cùng với Bình Phước, Tây Ninh hoàn thành việc cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến toàn trình trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.
Sau gần 3 năm nỗ lực thực hiện chuyển đổi số, đến nay, tỉnh Nam Định đã nằm trong top 10 toàn quốc với những đột phá trong xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số và xã hội số. Thông qua công tác triển khai các đề án, dự án, kế hoạch về chuyển đổi số kết hợp với việc thực thi các giải pháp về xây dựng môi trường chính sách, bảo đảm đủ nguồn nhân lực, tổ chức triển khai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển chính quyền số, kinh tế số và xã hội số.
Môi trường và phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được cải thiện theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực công nghệ thông tin từng bước đáp ứng nhu cầu ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin của tỉnh. Mức độ hài lòng của người dân đối với các cơ quan hành chính nhà nước ngày một tăng cao. Chính quyền số, kinh tế số và xã hội số của tỉnh từng bước được hình thành, phù hợp với bối cảnh phát triển của tỉnh và định hướng phát triển Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông cơ bản bảo đảm thực hiện mục tiêu “Đẩy mạnh chuyển đổi số để xây dựng chính quyền số; phát triển kinh tế số, xã hội số và thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển bền vững dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi của người dân” trên địa bàn tỉnh.
Từ cuối năm 2022 – khi Chính phủ triển khai Bộ chỉ số đánh giá sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp trên Cổng dịch vụ công quốc gia đến nay, Nam Định luôn nằm trong top đầu về xếp hạng của Cổng Dịch vụ công quốc gia. Vị trí xếp hạng của Nam Định trong quý I/2023 là thứ 7 và tháng 5 là thứ 2. Đặc biệt, tỉnh đã hoàn thành xuất sắc 3 nhiệm vụ chuyển đối số trọng yếu được Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số giao riêng là tổ chức triển khai số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính, hoàn thành các chỉ tiêu liên quan đến dịch vụ công trực tuyến đặt ra năm 2023 trước tháng 6/2023; triển khai mô hình chuyển đổi số điển hình và thực hiện chuyển đổi số tổng thể, toàn diện tại một số trường học trên địa bàn; triển khai nền tảng làm việc số cho phép người sử dụng đăng nhập một lần, trải nghiệm xuyên suốt, đồng bộ các chức năng thư điện tử, văn bản điện tử, lịch làm việc, họp trực tuyến, đôn đốc, nhắc việc, chia sẻ tập tin và các chức năng khác hỗ trợ công vụ.
Cổng dịch vụ công trực tuyến Nam Định được tích hợp với hệ thống thông tin một cửa điện tử của tỉnh, triển khai đến 100% các sở, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và 226 xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh. Việc thực hiện cung cấp một số dịch vụ công liên quan đến cư trú đạt được những kết quả vượt bậc so với trước khi triển khai Đề án 06. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các bộ, ngành tiếp tục được quan tâm đúng tiến độ, qua đó ngoài việc “làm giàu” dữ liệu dân cư đã góp phần “làm sạch” dữ liệu chuyên ngành, xác thực thông tin công dân chính xác, phục vụ giải quyết các thủ tục hành chính của các sở, ngành, địa phương… Công an tỉnh đã triển khai 11/11 dịch vụ công trực tuyến theo chỉ đạo của Bộ Công an, tiếp nhận và giải quyết 136.498 hồ sơ qua Cổng dịch vụ công, thường xuyên chỉ đạo Công an cấp huyện, xã duy trì, khắc phục những hạn chế, bảo đảm dữ liệu luôn “đúng, đủ, sạch, sống” và đẩy nhanh tiến độ cấp căn cước công dân gắn chíp điện tử với 1,7 triệu thẻ đã được cấp (chiếm 99%)…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công cuộc chuyển đổi số ở tỉnh Nam Định còn gặp những khó khăn, vướng mắc, như: nhận thức về chuyển đổi số ở một số cơ quan, địa phương chưa thực sự rõ ràng; chưa định hình được các nội dung triển khai chuyển đổi số trong đơn vị, địa phương, lĩnh vực; người đứng đầu tại một số đơn vị chưa thực sự quan tâm đến chuyển đổi số. Trình độ tiếp cận công nghệ thông tin của người dân, doanh nghiệp chưa cao, người dân và doanh nghiệp chưa có nhu cầu và chưa thấy được lợi ích khi tham gia chuyển đổi số. Hạ tầng phát triển công nghệ thông tin chưa đáp ứng; các giải pháp tích hợp, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin còn hạn chế. Hệ thống an toàn, an ninh mạng (SOC) chỉ bảo đảm phục vụ cho một số cơ sở dữ liệu và các dịch vụ của chính quyền điện tử, đô thị thông minh; chưa đủ khả năng để bảo đảm an ninh, an toàn thông tin cho toàn bộ hệ thống trên địa bàn tỉnh, tiềm ẩn nguy cơ bị tấn công mạng, đánh cắp cơ sở dữ liệu.
Hoạt động kinh tế số mới tập trung vào các hoạt động thanh toán thông qua các tổ chức tài chính, ngân hàng. Các lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất… chưa định hình rõ việc vận hành trên nền tảng kinh tế số. Công tác quản lý các hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử chưa được đồng bộ. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin có thể tham gia vào việc xây dựng hạ tầng số, dịch vụ số, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao còn ít; doanh thu và đóng góp của kinh tế số vào tổng sản phẩm trên địa bàn không đáng kể. Công tác đào tạo kỹ năng số cho người sử dụng, cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin các cấp để xây dựng chính quyền số chưa được quan tâm đúng mức.
4. Một số biện pháp thực hiện hiệu quả chuyển đổi số tại tỉnh Nam Định trong thời gian tới
Thứ nhất, cần tiếp tục bám sát lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương về thực hiện chuyển đổi số. Thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo theo định kỳ, hằng năm và báo cáo đột xuất về kết quả thực hiện công tác chuyển đổi số.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; phát huy vai trò của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiệm vụ chuyển đổi số gắn với mục tiêu nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, đơn vị. Xác định chuyển đổi số là nhiệm vụ trọng tâm, lâu dài và xuyên suốt của cơ quan, đơn vị, địa phương. Đưa kết quả triển khai chuyển đổi số thành chỉ tiêu kế hoạch, là một trong các tiêu chí đánh giá, phân loại của các ngành, các cấp, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, kỹ năng số, tăng cường tương tác với người dân, doanh nghiệp. Ứng dụng các kênh truyền thông đa dạng để nâng cao nhận thức, hình thành văn hóa số cho người dân, tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ chính quyền số; xây dựng các nền tảng, kênh tương tác trực tuyến giữa cơ quan nhà nước và người dân, doanh nghiệp; phổ cập điện thoại thông minh đến mọi người dân… Tăng cường tuyên truyền về chuyển đổi số trong cộng đồng dân cư, nòng cốt là các thành viên tổ công nghệ số tại các thôn, xóm, tổ dân phố, đồng thời phát huy vai trò tiên phong của lực lượng Đoàn thanh niên trong việc tuyên truyền và hỗ trợ người dân trong sử dụng các nền tảng số.
Thứ tư, phát triển các mô hình kết hợp giữa các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp. Huy động sự tham gia của cộng đồng, cho phép các tổ chức, doanh nghiệp cùng khai thác các hệ thống công nghệ thông tin, các nền tảng và cơ sở dữ liệu phục vụ việc phát triển hệ sinh thái sản phẩm chính quyền số. Phối hợp, tạo điều kiện, hỗ trợ doanh nghiệp giới thiệu, cung cấp sản phẩm, dịch vụ số trong mọi lĩnh vực. Lấy người dân, doanh nghiệp là chủ thể, là trung tâm trong chuyển đổi số để người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng những thành quả từ chuyển đổi số. Minh bạch hóa và tăng cường sự tham gia của người dân, doanh nghiệp trên tinh thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng.
Thứ năm, nâng cao chất lượng đào tạo, tập huấn về ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số cho cán bộ, công chức các cấp trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách công nghệ thông tin của các cơ quan, đơn vị. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với cơ chế thu hút, đãi ngộ để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên trách công nghệ thông tin của các cơ quan, đơn vị.
Thứ sáu, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực chuyển đổi số. Tăng cường tổ chức các hội thảo, hội nghị về chuyển đổi số nhằm trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số; đồng thời, hợp tác với các tổ chức nghiên cứu trong nước, nước ngoài để nâng cao hiệu quả chuyển đổi số. Xây dựng mối liên kết chặt chẽ, hiệu quả giữa nhà quản lý, nhà khoa học, nhà đầu tư và nhà sản xuất trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ. Tranh thủ nguồn viện trợ của các tổ chức quốc tế để xây dựng các chương trình, dự án về công nghệ thông tin…
5. Kết luận
Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo và kiểm soát của Chính phủ, tỉnh Nam Định đã đạt được những kết quả trong công tác chuyển đổi số. Mặc dù còn một số khó khăn, hạn chế nhưng với quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân tỉnh Nam Định đến năm 2030 đặt mục tiêu, cơ bản hoàn thành chuyển đổi số gắn với việc xây dựng các đô thị thông minh, kết nối đồng bộ với trung ương và hệ thống các đô thị thông minh trên toàn quốc, xây dựng Nam Định ngày càng văn minh, giàu mạnh mang lại giá trị hạnh phúc cho người dân và doanh nghiệp để góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, sánh vai cường quốc năm châu.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
3. Chuyển đổi số – Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/chuyen-doi-so-dong-luc-quan-trong-phat-trien-luc-luong-san-xuat-hoan-thien-quan-he-san-xuat-dua-dat-nuoc-buoc-vao-ky-nguyen-moi.
4. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
5. UBND tỉnh Nam Định (2022). Kế hoạch số 160/KH-UBND ngày 30/12/2022 về kế hoạch chuyển đổi số tỉnh Nam Định năm 2030.
6. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số ở các cơ quan hành chính tỉnh Nam Định. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/10/10/giai-phap-phat-trien-nguon-nhan-luc-phuc-vu-chuyen-doi-so-o-cac-co-quan-hanh-chinh-tinh-nam-dinh.