Quản lý nhà nước về môi trường ở một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

Lê Minh Duẩn
NCS. Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) – Môi trường và bảo vệ môi trường đã, đang và sẽ là chủ đề được các quốc gia trên thế giới quan tâm, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người cũng như sự phát triển bền vững của một đất nước. Hoạt động bảo vệ môi trường được tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm và tăng cường quản lý nhằm giữ gìn, phòng ngừa và hạn chế các tác động xấu đến môi trường hoặc đưa ra các biện pháp ứng phó đối với sự cố môi trường thông qua đó khắc phục ô nhiễm, suy thoái, cải thiện, phục hồi môi trường; giúp khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm giữ môi trường trong lành, sạch đẹp, tạo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội bền vững.

Từ khóa: Kinh nghiệm, quản lý nhà nước về môi trường, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.

1. Đặt vấn đề

Bài viết sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh khi giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội; giữa quản lý nhà nước về môi trường với tư cách là kiến trúc thượng tầng và thực tiễn hoạt động kinh tế, xã hội tác động tới môi trường với tư cách là cơ sở hạ tầng; mối quan hệ giữa hoạt động quản lý nhà nước về môi trường với hoạt động của các cơ sở kinh tế và người dân tác động tới môi trường; đồng thời đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về môi trường.

2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về môi trường của một số nước trên thế giới

2.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về môi trường của Nhật Bản

Quản lý nhà nước về môi trường ở Nhật Bản được đặt ra từ những năm 60 của thế kỷ trước nhằm giải quyết cùng lúc ba vấn đề: giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường; giảm chi phí kiểm soát ô nhiễm và chi phí về sức khỏe của cộng đồng; giảm giá thành sản xuất và giảm chi phí năng lượng. Đây cũng là tư duy mới về sản xuất, nghĩa là không phải chỉ lo xử lý chất thải ở công đoạn cuối của sản phẩm mà phải tính toán ngay từ đầu, bảo đảm sản xuất hợp lý nhất, phát thải ít nhất1. Với mục tiêu và phương hướng rõ ràng, Nhật Bản là một quốc gia có nhiều thành công trong quản lý nhà nước về môi trường. Những giải pháp mà Chính phủ Nhật Bản thực thi để bảo vệ môi trường đã mang lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho các nước đang phát triển tham khảo.

Thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản ban hành các quy định pháp luật bảo vệ môi trường rất đầy đủ và nghiêm ngặt. Cơ sở pháp lý cao nhất của hoạt động quản lý nhà nước về môi trường là các đạo luật. Quốc hội Nhật Bản đã ban hành các đạo luật, tiêu biểu là: Luật Môi trường cơ bản năm 1993, Luật Đánh giá tác động môi trường năm 1997, Luật Kiểm soát ô nhiễm nước năm 1970, Luật Làm sạch nơi công cộng và xả chất thải năm 1970, Luật Ngăn chặn sự cố và hàng hải ô nhiễm biển năm 1976, Luật Kiểm soát xuất nhập khẩu và quản lý rác thải độc hại và các rác thải khác năm 1993, Luật Về các biện pháp đặc biệt nhằm bảo vệ môi trường biển nội địa Seto năm 19732. Đối tượng điều chỉnh của các đạo luật này là các vấn đề môi trường, nhờ đó công tác quản lý nhà nước về môi trường được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Tư duy kiểm soát, sản xuất hợp lý, phát thải ít nhất ngay từ đầu vào giúp Chính phủ Nhật Bản ban hành những quy định pháp luật nghiêm ngặt về tiêu chuẩn phát thải chất thải, kiểm soát ô nhiễm nước, không khí và giám sát ô nhiễm các chất độc hại3.

Đối với quản lý môi trường nước, các tiêu chuẩn chất lượng môi trường nước được quy định, áp dụng đồng bộ cho tất cả mọi nguồn nước được chia thành nhiều nhóm tùy theo mục tiêu sử dụng nước ở ao, hồ, sông. Trong đó, ô nhiễm nước có thể phân thành nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng và cơ chế ô nhiễm nguồn nước. Nước thải công nghiệp được quy định bởi quy chế kiểm soát nước thải nhằm giảm tải lượng phát thải. Một trong những biện pháp kiểm soát nước thải là đặt ra quy chế nồng độ phát thải chứa trong nước thải. Các nguồn phát sinh ô nhiễm được phân loại tùy theo việc có xác định được địa điểm phát sinh hay không4.

Thứ hai, phân loại rác thải tại nguồn và sử dụng rác thải để tái chế. Luật Môi trường cơ bản năm 1993 của Nhật Bản quy định, các hộ gia đình bắt buộc phải phân loại rác tại nhà thành bốn mục chính trước khi đem ra ngoài thùng rác, tuân thủ quy tắc nghiêm ngặt về thời gian đổ rác ở từng địa phương. Hầu hết các địa phương ở Nhật Bản đều phân loại rác thải thành 4 loại: rác thải cháy được, rác thải không cháy được, rác thải tái chế và rác thải quá khổ. Quy định này vừa giúp người thu gom rác tiết kiệm được thời gian phân loại, vừa làm sạch môi trường cũng như tận dụng được những đồ dùng, nguyên vật liệu để làm đồ tái chế.

Quy định phân loại rác thải và thời gian đổ rác được chính quyền các địa phương đặt ra, chưa quy định thống nhất trên toàn quốc và từng loại rác sẽ thu gom theo giờ và theo ngày. Người dân nếu bỏ rác sai quy định sẽ bị phạt hoặc ghi nhắc nhở ngay trước cửa nhà. Khi chuyển đến một địa phương mới, người dân cần phải đến văn phòng thành phố để đăng ký thông tin cư dân. Chính quyền địa phương sẽ cung cấp các thông tin tổng hợp, trong đó có hướng dẫn, quy tắc, lịch trình thu gom chi tiết từng loại rác đã phân loại trong khu vực. Những thông tin này được đăng tải trên các website địa phương, có thể dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau5.

Chính phủ Nhật Bản quy định rõ từng loại bao bì đựng rác thải, các túi đựng này quy định từng màu cụ thể cho từng loại rác thải. Bao đựng rác thải được bán trong siêu thị và tại các cửa hàng tiện lợi; một số thành phố được chính quyền địa phương phát miễn phí, tuyệt đối không bỏ rác ở hiên nhà, lối thoát hiểm, hành lang đi lại hay ném qua cửa sổ mà đến giờ lấy rác mới được đem ra bỏ vào đúng vị trí quy định và khi bỏ rác ra ngoài phải buộc chặn miệng túi lại.

Thứ ba, khuyến khích sự nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc chống ô nhiễm môi trường. Người Nhật Bản quan niệm, bảo vệ môi trường là nghĩa vụ của mỗi công dân, là nền tảng tạo ra sự phát triển bền vững và chính quyền địa phương đóng vai trò rất quan trọng. Chính quyền địa phương ở Nhật Bản có rất nhiều lỗ lực trong công tác bảo vệ môi trường, thể hiện trên hai phương diện chủ yếu: (1) Tích cực và chủ động trong công tác bảo vệ môi trường ở địa phương, nhất là các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, huy động vốn, thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường ở các khu đô thị và doanh nghiệp trong phạm vi quản lý hành chính địa phương dựa trên các đặc điểm riêng biệt của địa phương mình. (2) Phối hợp chặt chẽ với chính quyền trung ương nhằm thực thi hiệu quả các biện pháp bảo vệ môi trường và thúc đẩy hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể của từng địa phương.

Với sự hỗ trợ của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương ở một số khu vực ở Nhật Bản đã xúc tiến chương trình bảo vệ môi trường với tên gọi “Kế hoạch quản lý môi trường khu vực nhằm ngăn ngừa ô nhiễm và bảo vệ môi trường tự nhiên”. Kế hoạch này được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Bộ Môi trường Nhật Bản và sự đóng góp tài chính của Nhân dân, doanh nghiệp từ các địa phương và tạo thành phong trào rộng lớn trên phạm vi cả nước. Nhờ đó, môi trường ở các đô thị lớn và một số địa phương ở Nhật Bản đã được cải thiện rất nhiều. Phong trào này cho đến nay vẫn được duy trì hiệu quả.

Mối quan hệ giữa Chính phủ và chính quyền địa phương còn được củng cố và tăng cường thông qua các chương trình trao đổi thông tin định kỳ về môi trường giữa Bộ trưởng Bộ Môi trường với những người đứng đầu ngành môi trường của các địa phương, tạo thành một mạng thông tin khép kín về môi trường giữa những người có trách nhiệm trong quản lý nhà nước về môi trường ở Nhật Bản. Chính phủ trung ương luôn ủng hộ các sáng kiến độc lập về bảo vệ môi trường ở các địa phương dựa trên các đạo luật về môi trường.

Bằng những sáng kiến độc lập, ở các đô thị Nhật Bản đã có tới hàng chục quỹ hỗ trợ, bảo vệ môi trường được thành lập. Nguồn tài chính từ các quỹ này cũng được sử dụng để sản xuất các chương trình hỗ trợ giáo dục môi trường cho học sinh, như: băng video, tài liệu đọc thêm, hỗ trợ các hoạt động tình nguyện, cung cấp chuyên gia tư vấn môi trường cho các nhóm dân cư sống ở các khu đô thị. Các dự án hỗ trợ bảo vệ môi trường ở thành phố Osaka, Nara, Kobe,… đều được tài trợ bởi các quỹ này. Chính phủ Nhật Bản khuyến khích, tạo điều kiện để các địa phương tham gia hợp tác quốc tế giải quyết vấn đề môi trường ngay tại địa phương mình. Chính phủ hỗ trợ tài chính cho các chương trình phát triển nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường nhằm đào tạo những người làm công tác quản lý ô nhiễm môi trường hoặc hỗ trợ tài chính đối tác cho các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển. Gần đây, Chính phủ Nhật Bản xúc tiến chương trình khảo sát “Vai trò quản lý ô nhiễm môi trường của chính quyền các địa phương với tư cách là nhà doanh nghiệp và người tiêu dùng”. Mục đích của cuộc khảo sát này là nhằm xây dựng dữ liệu phục vụ cho các kế hoạch quản lý ô nhiễm môi trường đô thị trong tương lai ở các địa phương này.

Thứ tư, tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường. Ý thức bảo vệ môi trường của người Nhật Bản được tuyên truyền, giáo dục đến với công dân Nhật Bản ngay từ nhỏ. Trong sách giáo khoa cấp tiểu học đã có những bài học về các loại rác và cách thu gom, phân loại, xử lý. Trong quá trình học tập tại trường, học sinh tham gia trò chơi tập thể, học thể thao trong nhà thể chất, tự dọn dẹp phòng học sau các giờ học. Các trường học ở Nhật Bản đều rất sạch sẽ, ngăn nắp và luôn được các học sinh quét dọn, lau chùi. Mỗi lần đi dã ngoại, nhà trường cũng yêu cầu các em mang theo túi để đựng rác, không vứt rác làm ô nhiễm môi trường. Đối với người Nhật Bản, thói quen phân loại rác, vứt rác đúng nơi quy định là thói quen văn hóa6.

2.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về môi trường của Hàn Quốc

Từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu với 85% dân số sống bằng nghề nông và đánh bắt cá, thu nhập bình quân đầu người dưới 200 USD vào đầu những năm 1960, Hàn Quốc đã trở thành một nước công nghiệp phát triển với 85% dân số sống ở đô thị vào thập kỷ cuối của thế kỷ 20. Hàn Quốc gia nhập Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) vào năm 1998 và là nền kinh tế có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) lớn thứ 11 trên thế giới. Kỳ tích phát triển kinh tế thập kỷ 70, 80, 90 thế kỷ XX của Hàn Quốc đã được cả thế giới biết đến và Hàn Quốc đã trở thành một trong bốn con rồng châu Á7.

Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, tăng trưởng kinh tế nhanh thì vấn nạn ô nhiễm môi trường cũng diễn ra với tốc độ nhanh. Để giải quyết tình trạng này Chính phủ Hàn Quốc đã thành lập một Bộ riêng biệt để chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về môi trường, đó là Bộ Môi trường. Bộ Môi trường Hàn Quốc là cơ quan thuộc Chính phủ, có trách nhiệm bảo vệ môi trường và ngăn chặn ô nhiễm môi trường. Nhiệm vụ của Bộ Môi trường là “Bảo vệ lãnh thổ khỏi sự ô nhiễm môi trường và cải thiện chất lượng cuộc sống cho dân chúng để họ có thể hưởng thụ môi trường thiên nhiên rộng lớn với cả nguồn nước cũng như bầu trời trong sạch”. Bộ Môi trường có trách nhiệm về các vấn đề, như: ban hành chính sách bảo vệ môi trường; quy định chất lượng nước, không khí; quy định thuế và phí môi trường; phát triển và duy trì cơ sở hạ tầng, cung cấp và tiêu thoát nước; đánh giá tác động môi trường; bảo tồn tự nhiên, bao gồm cả việc xây dựng các khu vực cần bảo vệ và bảo vệ động vật hoang dã. Dưới Bộ là các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường ở các địa phương; tùy theo các vấn đề môi trường cụ thể mà mỗi địa phương ban hành những quy định khác nhau về bảo vệ môi trường.

Hàn Quốc đã ban hành nhiều bộ luật nhằm quản lý nhà nước về môi trường, như: Luật Làm sạch chất thải năm 1961, Luật Phòng chống ô nhiễm môi trường năm 1963, Luật Ngăn chặn môi trường năm 1963, Luật Quản lý chất độc hại và nguy hiểm năm 1963, Luật Bảo vệ môi trường năm 1977, Luật Kiểm soát chất thải năm 1986, Luật Khung về chính sách môi trường năm 1990, Luật Bảo tồn không khí sạch năm 1990, Luật Kiểm soát tiếng ồn và độ rung năm 1990, Luật Bảo tồn chất lượng nước và hệ sinh thái nước năm 1990, Luật Bảo tồn môi trường tự nhiên năm 1991, Luật Trách nhiệm chi trả cải thiện môi trường năm 1991, Luật về nâng cao chất lượng không khí đô thị năm 2003, Luật Khuyến khích sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường năm 2004, Luật về quan trắc và phân tích môi trường năm 2006, Luật Khung về phát triển bền vững năm 2007, Luật Sức khỏe môi trường năm 2008, Luật Về cacbon thấp và tăng trưởng xanh năm 2009, Luật Hỗ trợ công nghệ và công nghiệp môi trường năm 2011. Các Luật này được ban hành nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước và môi trường trên toàn quốc với chiến lược tăng trưởng kinh tế xanh. Để bảo vệ môi trường, Chính phủ Hàn Quốc xây dựng ba trụ cột chính: ý thức của người dân; công tác quản lý đồng bộ, khoa học của các cơ quan chức năng và chế tài xử phạt.

Mục tiêu quản lý nhà nước về môi trường của Chính phủ Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào các nội dung sau:

Một là, áp dụng công nghệ tiên tiến vào xử lý chất thải. Chính phủ Hàn Quốc đã quyết tâm và tập trung các nguồn lực cho nghiên cứu phát triển công nghệ tiên tiến để đưa vào xử lý chất thải và tái chế chất thải. Hiện nay, Hàn Quốc là một trong những quốc gia xuất khẩu công nghệ, công nghiệp môi trường sang các nước đang phát triển. Công nghệ xử lý chất thải trở thành một ngành công nghiệp chất lượng cao tại Hàn Quốc. Hàn Quốc rất thành công trong sử dụng công nghệ đốt rác để sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho người tiêu dùng; sử dụng công nghệ lọc nước thải để chế biến nước thành thành nước uống; sử dụng công nghệ đốt rác để sản xuất năng lượng điện, đem nguồn điện sản xuất từ rác thải. Bộ Môi trường Hàn Quốc còn thành lập Viện Nghiên cứu quốc gia về tài nguyên sinh học để hỗ trợ cho việc quản lý và bảo tồn tốt hơn nguồn tài nguyên sinh học. Viện này hiện đang sở hữu 1,3 triệu bộ sưu tập và khả năng có thể chứa tới 11 triệu bộ sưu tập. 60 nhà phân loại của Viện đang tiến hành các dự án, bao gồm cả việc lập danh sách các loài cả động vật và thực vật có ở Hàn Quốc cũng như phân tích nguồn gốc phát sinh.

Hai là, quản lý rác thải, chất thải, nước thải và xử lý rác thải, chất thải, nước thải nghiêm ngặt. Bộ Môi trường Hàn Quốc đã áp dụng hệ thống xác minh rác thải để ngăn chặn việc đổ rác trái phép. Khi hệ thống này mới được áp dụng Chính phủ đã phát cho các hộ gia đình, các cơ sở kinh doanh một giấy chứng nhận cho phép đổ rác. Hệ thống này bước đầu đã xây dựng hành lang pháp lý để chống lại việc đổ rác trái phép. Chính phủ Hàn Quốc quy định, người dân phải phân loại rác ngay từ nhà, mỗi loại rác phải bỏ vào một túi chuyên biệt, rác thải được thu gom theo giờ, khi đó người dân mới được đem rác ra ngoài bỏ vào thùng rác chuyên biệt, miệng túi rác phải được bịt kín.

Bộ Môi trường cũng đưa ra quy định nhằm giảm thiểu rác thải trong kinh doanh. Quy định này được áp dụng cho những doanh nghiệp mỗi năm thải hơn 200 tấn rác đã ghi trong danh mục và 1.000 tấn rác thông thường. Các doanh nghiệp này nằm trong 14 lĩnh vực công nghiệp, như: công nghiệp xây dựng, công nghiệp lọc dầu, công nghiệp hóa chất, công nghiệp chế tạo ô tô… Kết quả này đã góp phần vào công cuộc ngăn chặn ô nhiễm môi trường ở cấp quốc gia.

Ngày nay, rác thải không còn là gánh nặng đối với Hàn Quốc mà quốc gia này còn coi rác thải là nguồn tài nguyên quý giá phục vụ cho hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp, từ rác thải sản xuất ra các sản phẩm phục vụ cho người dân và xuất khẩu.

Ba là, tuyên truyền, giáo dục ý thức của người dân. Chính quyền giáo dục nhận thức cho công dân từ trong gia đình cho đến trường học. Ngay từ nhỏ, trẻ em đã được giáo dục cách nhận biết và phân loại các loại rác thải tùy theo chất liệu để thu gom, phân loại và bỏ vào đúng nơi quy định. Trong mỗi gia đình người lớn phải làm gương và hướng dẫn con em mình thực hiện, họ xem đó như là một việc làm cần thiết hàng ngày. Do đó, ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường sống của người Hàn Quốc đều rất tốt.

Để khuyến khích Nhân dân tham gia vào việc bảo tồn sự đa dạng sinh học, Chính phủ Hàn Quốc phát động phong trào xây dựng “làng sinh thái” và “làng khôi phục sinh thái tốt”. Một làng được gọi là làng sinh thái khi môi trường tự nhiên và cảnh vật ở đó được bảo tồn tốt, còn một làng mà cư dân ở đó đang nỗ lực để khôi phục lại môi trường sinh thái đã một lần bị phá vỡ thì gọi là “làng khôi phục sinh thái tốt”. Thực hiện giải pháp này nhằm nâng cao nhận thức của cư dân địa phương đối với việc bảo tồn tự nhiên, đồng thời quản lý, bảo tồn môi trường tự nhiên hiệu quả hơn.

Theo đánh giá của Chương trình môi trường Liên hiệp quốc, Hàn Quốc là một nước có sự cải thiện về môi trường nhanh so với các nước công nghiệp khác. Chỉ trong vòng 10 năm, sau khi Hàn Quốc gia nhập tổ chức OECD (1998), môi trường sống, đặc biệt là chất lượng nước đã được cải thiện đáng kể. Điều này cho thấy Hàn Quốc đã có sự điều chỉnh chính sách kịp thời, có nhiều sáng tạo trong quản lý môi trường.

2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về môi trường của Singapore

Singapore được mệnh danh là một đất nước xanh và sạch vào bậc nhất thế giới. Có được điều đó là do Chính phủ Singapore đã coi nhiệm vụ bảo vệ môi trường là nhiệm vụ chiến lược trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội, Chính phủ Singapore đã tiến hành nhiều biện pháp kiểm soát và bảo vệ môi trường, trong đó tổ chức bộ máy bảo vệ môi trường và ban hành nhiều đạo luật nghiêm ngặt. Singgapore đã tổ chức riêng Bộ Môi trường và Cục phòng chống ô nhiễm nhằm thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước và quản lý chất thải rắn. Tiếp đó, hai tổ chức này lại thêm trách nhiệm kiểm soát và xử lý các chất độc hại. Về hệ thống pháp luật, Singapore ban hành Đạo luật về môi trường sức khỏe cộng đồng năm 1969, đưa ra những điều cấm nghiêm ngặt buộc mọi người phải thực thi.

Thứ nhất, Singapore đưa ra thể chế nghiêm ngặt, đánh mạnh vào tài chính và lao động công ích. Ở Singapore việc khạc nhổ, xả rác ở nơi công cộng là điều tối kỵ và sẽ bị phạt rất nặng. Quy định và chế tài ở Singapore có hàng loạt, họ nghiêm túc giám sát, xử phạt và phạt nặng để làm gương. Hành vi xả rác nơi công cộng bị bắt gặp lần đầu sẽ phạt từ 2.000 SGD (34 triệu đồng Việt Nam), 4.000 SGD cho lần vi phạm thứ hai, nếu tái phạm lần ba có thể bị phạt đến 10.000 SGD và bị buộc lao động công ích. Đi vệ sinh công cộng không xả nước bị phạt 150 SGD, ăn uống trên các phương tiện công cộng như xe buýt, tàu điện ngầm bị phạt đến 500 SGD. Gây ồn ào, cãi nhau, đánh nhau, gây rối trật tự công cộng bị phạt đến 1.000 SGD. Chó, mèo đi dạo mà phóng uế ở nơi công cộng, chủ nhân không dọn vệ sinh ngay mà để hậu quả lại hiện trường sẽ bị phạt đến 1.000 SGD. Từ tháng 01/2023, thực khách tại các trung tâm ăn uống mang sắc thái văn hóa riêng có của Singapore không tự trả các khay đựng đồ ăn tại các khu vực đã quy định sẽ bị phạt tiền. Lần đầu vi phạm có thể bị nhắc nhở nhưng nếu tái phạm sẽ bị phạt đến 300 SGD, thậm chí là phạt tù8. Đánh mạnh vào tài chính và phạt lao động công ích thì người dân và du khách quan tâm và có ý thức hơn trong sinh hoạt công cộng.

Một hình thức nặng hơn là phạt tù, đây hình thức dành cho người cố tình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường, khi mà hành vi phạm tội có thể mang lại cho người phạm tội những khoản lợi nhuận lớn nếu họ không bị phát hiện và hình phạt vẫn không ngăn chặn được các hành vi mà người đó gây ra. Theo Đạo luật về môi trường sức khỏe cộng đồngĐạo luật kiểm soát ô nhiễm quy định những người vi phạm lần đầu bị tòa án tuyên án buộc tội về hành vi đưa chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến một năm. Với hình thức này thì bắt buộc các chủ doanh nghiệp phải đầu tư mạnh mẽ hệ thống xử lý ô nhiễm nước thải. Mặt khác, để được cấp phép hoạt động cho một doanh nghiệp, điều kiện kiên quyết đầu tiên là phải đầy đủ hồ sơ về môi trường và phải được cơ quan quản lý môi trường kiểm tra và chứng nhận thì bộ phận cấp phép mới tiến hành các thủ tục tiếp theo để cấp phép thành lập doanh nghiệp đó.

Thứ hai, quản lý rác thải, chất thải nghiêm ngặt. Rác thải được yêu cầu được phân loại ngay tại gia đình và phải đựng vào các loại túi để rác thải chuyên biệt theo quy định của Luật, người dân không được tự ý dùng các túi ni lông để thay bằng túi đựng rác. Đồng thời, chính quyền cũng quy định từng giờ thu gom rác thải của từng loại rác, theo giờ quy định của địa phương thì các hộ gia đình mới được đưa rác ra bãi tập kết, rác loại nào thì phải bỏ đúng thùng rác của loại đó, miệng túi đựng rác phải được bịt kín. Có địa phương còn bắt buộc ghi rõ tên hộ gia đình đó lên túi rác, trường hợp không phân loại đúng rác thì túi rác đó sẽ được trả lại hộ gia đình đó.

Hai vấn đề lớn được chú trọng và cũng là thành công lớn ở Singapore là quản lý hệ thống thoát nước và quản lý chất thải rắn. Đó là việc cung cấp hệ thống thoát nước toàn diện để thu gom, xử lý nước thải sinh hoạt, nước thải sản xuất; tổ chức một hệ thống quản lý chất thải rắn rất có hiệu quả. Hệ thống thoát nước phục vụ tất cả các công trình công nghiệp và hơn 97% khu vực dân cư gồm hơn 2.500 km đường ống và cống, cộng với hàng trăm trạm bơm và hàng chục nhà máy xử lý nước thải. Một tỷ lệ nước thải rất nhỏ của khu vực dân cư là do những nhà máy xử lý tại chỗ đảm nhiệm. Nước thải công nghiệp đều được xử lý và đạt tiêu chuẩn quy định trước khi đưa vào mạng đường ống chung.

Về quản lý chất thải rắn, Singapore có một hệ thống thu gom rác hoàn thiện và hiệu quả. Dịch vụ thu gom chất thải rắn đô thị đáng tin cậy nhờ đã áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý dịch vụ này. Mọi chất thải rắn đều được thu gom và xử lý hàng ngày. Vì ở quốc đảo này rất khan hiếm đất nên hầu như các chất thải rắn đều phải thiêu đốt. Đối với các chất thải không thể đốt được và tro từ các nhà máy đốt rác sẽ được xử lý tại bãi thải vệ sinh lớn. Chất đã làm sạch từ bãi này lại được thu gom và xử lý trước khi thải ra biển.

Thứ ba, tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức của người dân. Chính phủ Singapore thực hiện giáo dục ngay từ trong trường học, đưa giáo dục bảo vệ môi trường vào học được, học sinh ngay từ khi còn nhỏ từ cấp mầm non giáo viên đã dạy ý thức ngăn nắp, sạch, gọn gàng cho học sinh bằng cách đưa vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường vào chương trình học và các hoạt động của nhà trường. Nhiều trường học còn khuyến khích và yêu cầu học sinh tìm hiểu về quá trình biến đổi khí hậu cũng như có những hành động bảo vệ môi trường, khuyến khích học sinh tham gia thảo luận mang tính xây dựng và sáng tạo học đường, từ đó có sự sáng suốt trong hành động của mỗi bản thân học sinh đó.

Tuyên truyền pháp luật môi trường cho người dân, đồng thời kèm theo những hình phạt về tài chính, hình sự, dân sự để cho người dân hiểu tác hại của việc gây ô nhiễm môi trường đối với sự sống của mình, tuyên truyền để người dân thấy được những hình phạt mà người dân đó phải nhận được trong việc thiếu ý thức, thiếu trách nhiệm chung tay cùng với chính quyền bảo vệ môi trường. Sự nhận thức của cộng đồng về môi trường là yếu tố quan trọng nhất làm cơ sở để duy trì và phát triển môi trường đô thị thích hợp. Singapore đã thực hiện nhiều chương trình giáo dục nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của quần chúng về môi trường, đồng thời động viên người dân tham gia tích cực vào việc bảo vệ và gìn giữ môi trường.

Bộ Môi trường thường xuyên làm việc với các tổ chức xã hội để thực hiện những chiến dịch giáo dục tới tận các cộng đồng dân cư. Các chương trình giáo dục về môi trường bao gồm từ tiểu học, trung học đến đại học. Thiếu nhi cũng tham gia vào các chuyến tham quan và bảo vệ thiên nhiên, làm quen với trang thiết bị xử lý và tái chế chất thải. Các trường học thường tổ chức nhiều cuộc triển lãm để tuyên truyền về nhận thức môi trường và tái chế chất thải.

Thứ tư, áp dụng công nghệ hiện đại để xử lý môi trường. Sử dụng công nghệ tiên tiến để xử lý rác thải, chất thải, nước và tái chế chất thải để phục vụ cho cuộc sống của người dân. Đặc biệt, với hệ thống xử lý nước thải tiên tiến, Singapore đã hô biến nước thải thành nước sạch dùng cho sinh hoạt hàng ngày. Đây được coi là một thành công vang dội, một bước tiến đột phá trong khoa học. Nhà nước đã đầu tư và xây dựng hệ thống nhà máy xử lý nước thải tiên tiến bao gồm mạng lưới đường hầm và các nhà máy công nghệ cao. Theo cơ quan quản lý nước quốc gia, nước thải tái chế hiện có thể đáp ứng 40% nhu cầu nước của Singapore và dự kiến sẽ tăng lên 55% vào năm 20609.

Đốt rác để phát điện cũng là một lĩnh vực mà khoa học tiên tiến đã được nghiên cứu và đưa vào áp dụng tại Singapore. Công nghệ đốt rác phát điện là một quá trình biến đổi rác thải từ các nguồn khác nhau thành năng lượng điện. Quá trình này bao gồm việc đốt cháy rác thải ở nhiệt độ cao trong môi trường được kiểm soát chặt chẽ tạo ra hơi nước. Sử dụng hơi nước và nhiệt lượng để sản xuất điện năng phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Công nghệ này vừa giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường lại có thể thu hồi năng lượng. Đây là công nghệ mang lại lợi ích kép, giảm chi phí.

3. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam

Một là, về công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường. Sự phối hợp công việc nhịp nhàng giữa các cơ quan, đơn vị, cấp chính quyền địa phương có liên quan đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về môi trường.

Hai là, về chiến lược, kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực quản lý nhà nước về môi trường cần cụ thể hướng đến mục tiêu xây dựng các tỉnh, thành phố xanh, sạch, hiện đại. Cần quan tâm xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên ngành môi trường và quản lý chất lượng môi trường, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ bảo vệ môi trường thường xuyên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn, giao lưu học hỏi kinh nghiệm ở các nước và các địa phương khác. Đặc biệt, quy định cụ thể về trách nhiệm và quyền hạn trong công tác quản lý nhà nước về môi trường, không để trách nhiệm chồng chéo hoặc trùng lắp.

Ba là, đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động các nguồn lực để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường. Kinh nghiệm từ các quốc gia và ngay từ thực tiễn một số địa phương của Việt Nam, nhiều mô hình, hoạt động xã hội hóa trong bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt, như: mô hình “Câu lạc bộ môi trường” của Hội cựu chiến binh; mô hình “Phân loại rác tại nguồn, đổi rác tái chế lấy quà” của Hội Phụ nữ; mô hình “Cánh đồng không bao bì thuốc bảo vệ thực vật” của Hội Nông dân; mô hình “Toàn dân chung tay bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn mới” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; mô hình “Thanh niên tình nguyện giải tỏa các tụ điểm nóng về rác thải” của Đoàn Thanh niên; mô hình trường học, bệnh viện, nhà máy xanh, sạch, đẹp. Hầu hết các tổ chức chính trị xã hội điều có công trình, tuyến đường tự quản bảo vệ môi trường sáng, xanh, sạch, đẹp, an ninh, an toàn giao thông và có nhiều hoạt động tham vấn, phản biện, giám sát, phát hiện các hành vi gây ô nhiễm môi trường, thông báo cho cơ quan chức năng ngăn chặn kịp thời. Hiện nay, xuất hiện ngày càng nhiều mô hình hợp tác xã, tổ, đội thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở khu vực sinh sống hoạt động hiệu quả, tự đầu tư trang thiết bị, phương tiện thu gom, với mục đích làm cho phố, phường môi trường sáng, xanh, sạch, đẹp.

Nhiều doanh nghiệp tham gia xã hội hóa thông qua việc chủ động đầu tư thay đổi dây chuyền, công nghệ sản xuất giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, năng lượng, giảm chất thải, phát thải khí nhà kính, đầu tư hệ thống thu gom, xử lý nước thải, khí thải, bụi, tiếng ồn, kéo dài vòng đời sản phẩm, thực hiện kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người lao động về ý thức bảo vệ môi trường, xây dựng nhà máy, xí nghiệp xanh, sạch đẹp.

Bốn là, tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ tiên tiến, hiện đại vào cải tạo chất lượng nguồn nước, chất lượng đất và xử lý chất thải sinh hoạt. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ và phát triển không ngừng tại các đô thị lớn, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, vấn đề bảo vệ môi trường và hệ sinh thái đã trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều này đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ của cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp, nhà khoa học và mỗi cá nhân.

Sự kết hợp giữa khoa học – công nghệ và những chiến lược bảo vệ môi trường có thể tạo nên những giải pháp đột phá góp phần làm giảm áp lực lên môi trường, đồng thời, duy trì và phục hồi những giá trị cốt lõi của hệ sinh thái. Biện pháp khoa học – công nghệ bảo vệ môi trường là dùng phương pháp, kỹ thuật, công nghệ và giải pháp được phát triển và ứng dụng dựa trên nền tảng khoa học để giảm thiểu tác động tiêu cực của hoạt động con người lên môi trường tự nhiên. Việc bảo vệ môi trường thông qua khoa học – công nghệ không chỉ giúp giữ gìn và cải thiện chất lượng môi trường mà còn hỗ trợ phát triển kinh tế bền vững, bảo đảm an ninh nguồn tài nguyên và sức khỏe cộng đồng.

Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của người dân, tổ chức, doanh nghiệp trong bảo vệ môi trường. Các cơ quan có thẩm quyền, trách nhiệm cần chủ động phối hợp với các lực lượng để thường xuyên thanh tra, kiểm tra, giám sát các tổ chức, doanh nghiệp và người dân hoạt động bảo vệ môi trường. Ngoài ra, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm mục đích để kịp thời xử lý các trường hợp vi phạm, như: đổ chất thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt ra môi trường tự nhiên… làm ảnh hưởng đến mỹ quan và chất lượng đời sống của người dân. Thanh tra, kiểm tra còn giám sát các cơ sở, địa phương sử dụng hợp lý nguồn vốn được cấp dành cho bảo vệ môi trường đã hợp lý chưa để kịp thời xử lý nếu các đơn vị, địa phương quản lý sử dụng nguồn vốn được cấp được cấp chưa đúng mục đích.

Sáu là, hoàn thiện các quy định pháp luật và triển khai có hiệu quả các công cụ kinh tế trong quản lý nhà nước về môi trường. Xây dựng cơ chế tài chính dựa trên các nguyên lý của kinh tế thị trường để thúc đẩy, điều chỉnh, thay đổi hoạt động sản xuất, hành vi của các tổ chức, cá nhân theo hướng thân thiện với môi trường, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp môi trường, xử lý ô nhiễm, quản lý chất thải, cung cấp dịch vụ bảo vệ môi trường.

Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hóa và giải quyết được những vấn đề còn vướng mắc, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường góp phần phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Trên cơ sở các văn bản pháp luật quy định công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở các địa phương cần kịp thời xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường phù hợp với điều kiện của từng địa phương, đơn vị.

4. Kết luận

Qua nghiên cứu và tìm hiểu bài học kinh nghiệm quản lý nhà nước về môi trường ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore để quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đi vào nề nếp, ổn định và phát triển thì điều cần thiết trước tiên là phải ban hành một hệ thống pháp luật thật chặt chẽ từ trung ương xuống địa phương, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đó phải khuyến khích và tạo điều kiện cho đặc thù, tính chất của từng địa phương để cho từng địa phương mạnh dạn thực hiện hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường, trong đó, hệ thống pháp luật cũng quy định mức xử phạt, thậm chí xử lý hình sự và bắt buộc lao động công ích hoặc có những chế tài phù hợp với khách du lịch nếu vi phạm vệ sinh môi trường.

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, thực hiện áp dụng công nghệ khoa học tiên tiến vào xử lý chất thải, rác thải, nước thải, kỹ thuật tái chế để quay lại phục vụ con người là giải pháp bền vững nhất. Bên cạnh đó, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức của người dân từ gia đình, nhà trường cho đến xã hội, xây dựng ý thức chung tay bảo vệ môi trường… Những kinh nghiệm không nên áp dụng dập khuôn mà trên cơ sở thực tế phát triển nhanh của từng loại đô thị để cấp ủy, chính quyền các tỉnh, thành phố có những chủ trương, chính sách vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển đồng đều các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực bảo vệ môi trường là lĩnh vực quan trọng.

Chú thích:
1, 3, 4. Nguyễn Hường (2024). Người Nhật Bản bảo vệ môi trường. Tạp chí điện tử Tài nguyên và Môi trường, ngày 02/01/2024.
2. Đức Trung (2023). Cách người Nhật phân loại rác. VnExpress, ngày 09/11/2023.
5. Hoàng Nhất Thống (2024). Kinh nghiệm xây dựng thể chế và vận hành thiết chế quản lý nhà nước về môi trường biển của một số nước khu vực biển Đông Á – Bài học cho Việt Nam. Tạp chí Môi Trường, số 6/2024.
6. Trương Thị Huyền (2021). Nhật bản: Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội. Tạp chí Môi trường, ngày 06/4/2021.
7. Phạm Thị Xuân Mai (2009). Môi trường và quản lý môi trường của Hàn Quốc. Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.
8. Lê Nam (2022). Bất chấp, rác thải “bôi bẩn” khắp nơi: Singapore giữ môi trường xanh, sạch như thế nào. Báo Người lao động điện tử, ngày 08/7/2022.
9. Lan Anh (2021). Singapore và công nghệ tái chế nước thải hiệu quả. Tạp chí điện tử Kinh tế và Môi trường, ngày 11/8/2021.