Tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị quân đội trong thực hiện công tác dân tộc hiện nay

ThS. Phạm Viết Đạt
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Quân đội nhân dân Việt Nam có vai trò quan trọng trong thực hiện công tác dân tộc của Đảng và Nhà nước. Trong đó, trọng tâm là hoạt động tăng cường phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các đơn vị quân đội với cấp ủy, chính quyền và tổ chức chính trị – xã hội, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số. Bài viết phân tích cơ sở, nội dung, đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp tăng cường sự phối hợp giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay.

Từ khóa: Công tác dân tộc, hệ thống chính trị cơ sở, Quân đội nhân dân Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc luôn giữ vị trí then chốt, được xem là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, tại vùng dân tộc thiểu số – “phên dậu” của Tổ quốc, nơi có vị trí chiến lược thì công tác dân tộc càng cấp thiết, mang tính quyết định. Quân đội nhân dân Việt Nam – công cụ bạo lực sắc bén của Đảng và Nhà nước, lực lượng chính trị trung thành, tin cậy, có vai trò nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là lực lượng xung kích đi đầu trong thực hiện công tác dân tộc. Thực tiễn lịch sử khẳng định đóng góp to lớn của Quân đội trong thực thi chính sách dân tộc, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế, khu vực đan xen nhiều yếu tố phức tạp, khó lường, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo và âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng của thế lực thù địch đã đặt ra nhiều thách thức mới. Do đó, tăng cường phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn đóng quân trong thực hiện công tác dân tộc ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay là yêu cầu khách quan, yếu tố quan trọng bảo đảm công tác dân tộc được tiến hành có chất lượng, hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

2. Nội dung phối hợp giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc

a. Về cơ sở phối hợp.

Xuất phát từ lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, “thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị”1. Quan điểm này nhấn mạnh tính toàn diện, bao trùm của vấn đề dân tộc, ảnh hưởng sâu rộng đến vận mệnh quốc gia, đòi hỏi sự chung tay, góp sức của mọi thành phần, lực lượng trong xã hội, trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam, đóng vai trò là một bộ phận cấu thành, xung kích đi đầu.

Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia công tác dân tộc xuất phát từ chính bản chất, truyền thống tốt đẹp và chức năng, nhiệm vụ cao cả của Quân đội. Tham gia công tác dân tộc là sự hiện thực hóa sinh động mối quan hệ quân dân như cá với nước, Quân đội thực sự là “từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà chiến đấu”. Đây không chỉ là nhiệm vụ chính trị mà còn thể hiện truyền thống, bản chất cách mạng, thấm nhuần giá trị nhân văn sâu sắc, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ gốc, từ cơ sở Nhân dân.

Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống chính trị cơ sở được đặt ra như một yêu cầu tất yếu để bảo đảm Quân đội thực hiện công tác dân tộc chất lượng, hiệu quả. Công tác dân tộc đòi hỏi sự am hiểu sâu sắc về văn hóa – xã hội, phong tục tập quán của từng dân tộc, điều mà hệ thống chính trị cơ sở có mối liên hệ mật thiết, thường xuyên với cộng đồng có ưu thế vượt trội. Sự phối hợp này giúp Quân đội tận dụng được lợi thế về chuyên môn, sự am hiểu địa phương của hệ thống chính trị cơ sở, từ đó triển khai các hoạt động phù hợp, tránh được những sai lầm do thiếu thông tin hoặc không am hiểu văn hóa bản địa.

Sự phối hợp bảo đảm các hoạt động của Quân đội trong công tác dân tộc luôn tuân thủ đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đồng thời phù hợp với tình hình thực tiễn tại địa phương. Hệ thống chính trị cơ sở, đặc biệt là cấp ủy, chính quyền địa phương, đóng vai trò định hướng, chỉ đạo và quản lý toàn diện các hoạt động trên địa bàn, nắm vững chủ trương, chính sách từ trung ương đến địa phương. Thông qua phối hợp, Quân đội nhận được sự chỉ đạo, hướng dẫn, bảo đảm các hoạt động công tác dân tộc được triển khai đúng đắn, hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của Đảng, Nhà nước và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.

Tính đồng bộ, thống nhất và kịp thời trong quá trình phối hợp là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả công tác dân tộc. Bởi lẽ, công tác dân tộc là một quá trình liên tục, đa chiều, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các lực lượng. Sự phối hợp chặt chẽ giúp Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống chính trị cơ sở cùng nhau xây dựng kế hoạch, phân công nhiệm vụ, triển khai đồng bộ các biện pháp, bảo đảm sự thống nhất về mục tiêu, nội dung và phương pháp. Đồng thời, sự phối hợp còn giúp phát hiện và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh, bảo đảm tiến độ và chất lượng công việc.

Sự phối hợp chặt chẽ với hệ thống chính trị cơ sở, kết hợp với sự tin yêu, giúp đỡ của đồng bào, tạo điều kiện cho Quân đội nắm chắc địa bàn, triển khai công tác dân tộc một cách sát thực và hiệu quả nhất. Thông qua hệ thống chính trị cơ sở, Quân đội tiếp cận gần dân, hiểu dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đồng bào, từ đó có thể triển khai các hoạt động công tác dân tộc phù hợp với nhu cầu và mong muốn của Nhân dân. Sự phối hợp này không chỉ nâng cao hiệu quả công tác dân tộc mà còn củng cố vững chắc mối quan hệ quân dân, xây dựng lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội.

b. Về các nội dung phối hợp.

Quân đội chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về các giải pháp thiết thực, tập trung kiện toàn bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở, đồng thời đổi mới phương thức hoạt động của các đoàn thể, phát huy vai trò của những cá nhân có uy tín trong cộng đồng. Tiếp đó, trong công tác tuyên truyền, vận động, Quân đội phối hợp mật thiết với địa phương truyền tải sâu rộng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đến đồng bào. Nội dung tuyên truyền được chú trọng vào chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới, chính sách dân tộc, giá trị văn hóa truyền thống và ý thức quốc phòng – an ninh.

Quân đội tích cực tham gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sự phối hợp với các ban ngành địa phương được triển khai mạnh mẽ trong các hoạt động xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng, thông qua việc tham gia các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, hỗ trợ đồng bào phát triển sản xuất, xây dựng các công trình dân sinh thiết yếu. Những hoạt động này không chỉ cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào mà còn thắt chặt tình đoàn kết quân dân, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và Quân đội.

Trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, Quân đội phối hợp chặt chẽ với địa phương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, phối hợp với các lực lượng chức năng giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Quân đội còn chú trọng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho đồng bào, nâng cao ý thức cảnh giác, tinh thần yêu nước, bảo vệ Tổ quốc.

Trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, Quân đội tăng cường phối hợp nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện và tham mưu giải quyết các vụ việc, ngăn chặn các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để gây bất ổn. Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số vững mạnh, Quân đội phối hợp bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị cơ sở, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng này, đóng vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào.

Quân đội còn chung tay với địa phương giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, thông qua tuyên truyền nâng cao nhận thức về giá trị văn hóa truyền thống, phối hợp nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp, đồng thời đấu tranh loại bỏ hủ tục lạc hậu.  Trong thực hiện CSDT, Quân đội chủ động tham mưu, phối hợp giải quyết các vấn đề liên quan đến chính sách, bảo đảm chính sách được triển khai hiệu quả, đến được với người dân.

Để tăng cường sức mạnh tổng hợp trong công tác dân tộc, Quân đội phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và các tổ chức chính trị – xã hội, phối hợp cùng các tổ chức trong tập hợp, vận động quần chúng, nâng cao hiệu quả công tác dân tộc góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh.

3. Thực trạng sự phối hợp giữa các đơn vị quân đội trong thực hiện công tác dân tộc hiện nay

Trong những năm qua, sự phối hợp giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quân đội nhân dân Việt Nam và hệ thống chính trị cơ sở đã phối hợp tổ chức hàng ngàn đợt tuyên truyền, vận động, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức pháp luật, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho đồng bào. Đã phối hợp tổ chức 677.805 buổi diễn đàn, nói chuyện chuyên đề, phổ biến giáo dục pháp luật với sự tham gia của 171.077.000 lượt người; vận động 57.195 hộ/208.030 nhân khẩu không di cư tự do, vận động 87.041 học sinh trở lại trường học2. Các hoạt động tuyên truyền ngày càng đổi mới về nội dung, hình thức, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, thu hút đông đảo đồng bào tham gia.

Quân đội đã tích cực phối hợp, tham gia củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là ở các xã, thôn, bản vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới với hơn 4.800 chi bộ, 5.300 tổ chức chính quyền, 23.000 tổ chức chính trị – xã hội, bồi dưỡng hơn 10.000 lượt cán bộ cơ sở. Quân đội đã hỗ trợ địa phương xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phát triển đảng viên, đoàn viên, hội viên là người dân tộc thiểu số, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành của hệ thống chính trị cơ sở. Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho hơn 300 nghìn lượt già làng, trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số3.

Quân đội đã phối hợp triển khai nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng dân tộc thiểu số, mang lại hiệu quả thiết thực. Xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho gần 87.000 hộ dân trong vùng dự án, xây dựng mới 276 điểm dân cư, làm mới, sửa chữa 6.427 km đường giao thông nông thôn, 3.216 cầu dân sinh, 572 công trình nước sạch, 168 công trình điện, 2.156 công trình thủy lợi; 3.591 phòng học, nhà văn hóa; tập huấn, chuyển giao kỹ thuật 687 lớp/22.563 người4. Quân đội cũng tích cực tham gia các hoạt động văn hóa, y tế, giáo dục, bảo tồn văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào.

Quân đội đã phối hợp chặt chẽ với hệ thống chính trị cơ sở xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng dân tộc thiểu số. Quân đội đã chủ động nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xử lý kịp thời, hiệu quả các vụ việc phức tạp liên quan đến dân tộc, tôn giáo, không để các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, gây rối. Quân đội cũng phối hợp với công an, biên phòng và các lực lượng chức năng khác giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới. Ngăn chặn 1.278 vụ/12.248 lượt người tham gia sinh hoạt đạo trái pháp luật, trong đó 87 vụ/528 người nước ngoài; vận động thu nộp vũ khí tự tạo các loại 5.787 khẩu; vận động trên 2.500 người không vượt biên trái phép; giải quyết thành công hàng trăm vụ việc phức tạp liên quan đến vấn đề dân tộc5.

Bên cạnh những kết quả đạt được, sự phối hợp giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc vẫn còn tồn tại một số hạn chế và bất cập. Ở một số địa phương, đơn vị, nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác dân tộc và sự phối hợp thực hiện công tác dân tộc chưa đầy đủ, sâu sắc. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác dân tộc và công tác phối hợp chưa được quan tâm đúng mức. Cơ chế phối hợp chưa hoàn thiện, chưa quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, nội dung, phương thức và cơ chế trao đổi thông tin giữa các lực lượng, các cấp. Sự phối hợp giữa các lực lượng, các cấp có lúc, có nơi còn hình thức, thiếu chiều sâu, chưa thực sự đồng bộ, chặt chẽ. Công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác dân tộc có lúc, có nơi còn chất lượng thấp, chưa sát với thực tế. Khả năng nắm tình hình và giải quyết các vấn đề nảy sinh liên quan đến dân tộc của một số đơn vị, địa phương còn hạn chế, chưa kịp thời, hiệu quả.

Nội dung, hình thức tuyên truyền, vận động ở một số nơi còn khô khan, hình thức, chưa hấp dẫn, chưa phù hợp với đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ, trình độ dân trí của đồng bào dân tộc thiểu số. Công tác tuyên truyền, vận động chưa phát huy đầy đủ vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng. Những yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả phối hợp: Về yếu tố chủ quan, năng lực, trình độ của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ làm công tác dân vận, công tác dân tộc còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các đơn vị, địa phương còn thiếu chủ động, tích cực. Về yếu tố khách quan, tình hình kinh tế – xã hội ở vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, phức tạp. Âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc ngày càng tinh vi, xảo quyệt.

4. Biện pháp tăng cường sự phối hợp giữa Quân đội nhân dân Việt Nam với hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng và cấp ủy, chính quyền địa phương.

Nâng cao nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của công tác dân tộc và tầm quan trọng của sự phối hợp trong tình hình mới. Cần quán triệt sâu rộng trong toàn quân và toàn hệ thống chính trị cơ sở về quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc và sự phối hợp thực hiện công tác dân tộc. Nhận thức rõ công tác dân tộc là nhiệm vụ chiến lược, quan trọng, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Đưa nội dung phối hợp thực hiện công tác dân tộc vào nghị quyết, kế hoạch công tác thường kỳ và chuyên đề của các cấp ủy đảng, chính quyền và đơn vị quân đội. Cần cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc và công tác phối hợp thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong nghị quyết, kế hoạch công tác hằng năm, hằng quý, hằng tháng của các cấp ủy đảng, chính quyền và đơn vị quân đội. Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, chính quyền các cấp và cơ quan chức năng đối với việc thực hiện công tác dân tộc và công tác phối hợp. Định kỳ sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót, nhân rộng những mô hình hay, cách làm hiệu quả.

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế phối hợp.

Xây dựng và ban hành quy chế phối hợp cụ thể, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm, nội dung, phương thức và cơ chế trao đổi thông tin giữa Quân đội, chính quyền và các tổ chức chính trị – xã hội các cấp. Cần xác định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, cá nhân trong từng nội dung, từng giai đoạn phối hợp. Thiết lập cơ chế họp định kỳ, đột xuất để trao đổi tình hình, đánh giá kết quả và thống nhất biện pháp giải quyết các vấn đề nảy sinh. Cần quy định rõ chế độ giao ban định kỳ giữa các lực lượng, các cấp để trao đổi thông tin, đánh giá tình hình, thống nhất chủ trương, biện pháp, kế hoạch phối hợp. Khi có vấn đề phức tạp nảy sinh, cần tổ chức họp đột xuất để bàn biện pháp giải quyết kịp thời, hiệu quả. Phát huy vai trò của các cơ quan chuyên trách trong tham mưu, hướng dẫn và điều phối hoạt động phối hợp. Cần kiện toàn, nâng cao năng lực của các cơ quan chuyên trách làm công tác dân vận, công tác dân tộc ở các cấp, các ngành. Phát huy vai trò của các cơ quan này trong việc tham mưu, đề xuất chủ trương, biện pháp, kế hoạch phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các lực lượng, các cấp thực hiện công tác dân tộc và công tác phối hợp.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả phối hợp trong các lĩnh vực.

Thống nhất nội dung, hình thức tuyên truyền phù hợp với đặc điểm văn hóa, ngôn ngữ, trình độ dân trí của từng dân tộc. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với tâm lý, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số. Hình thức tuyên truyền cần đa dạng, sinh động, hấp dẫn, kết hợp giữa tuyên truyền miệng, tuyên truyền trực quan, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát huy vai trò của văn hóa, văn nghệ dân gian. “Phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành, đoàn thể tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc”6.

Phối hợp chặt chẽ với đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng để tuyên truyền, vận động. Phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong công tác tuyên truyền, vận động. Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ này, tạo điều kiện để họ phát huy vai trò trong tuyên truyền, vận động đồng bào. Đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, kết hợp giữa tuyên truyền miệng và các phương tiện thông tin đại chúng. Kết hợp linh hoạt giữa các hình thức tuyên truyền truyền thống và hiện đại, giữa tuyên truyền miệng và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sử dụng hiệu quả các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là các kênh truyền thông gần gũi với đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số như đài phát thanh, truyền hình địa phương, báo chí bằng tiếng dân tộc, internet, mạng xã hội.

Quân đội tích cực tham gia củng cố tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng, phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số. Quân đội cần phối hợp với địa phương trong việc rà soát, đánh giá chất lượng tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng ở cơ sở, xây dựng kế hoạch củng cố, kiện toàn. Tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ quân đội tham gia vào công tác phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số, bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng ưu tú là người dân tộc thiểu số phấn đấu vào Đảng. Quân đội phối hợp với địa phương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ cơ sở về công tác đảng, công tác chính quyền, công tác đoàn thể, công tác dân vận, công tác dân tộc. Nội dung bồi dưỡng cần thiết thực, sát với yêu cầu nhiệm vụ, chú trọng trang bị kiến thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, kiến thức pháp luật, kiến thức về văn hóa, phong tục tập quán của các dân tộc.

Quân đội cần chủ động xây dựng kế hoạch tham gia vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng dân tộc thiểu số. “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030”7. Việc lựa chọn các chương trình, dự án tham gia cần phù hợp với thế mạnh của Quân đội, đồng thời đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của địa phương và đồng bào.

Phối hợp với địa phương trong việc nghiên cứu, sưu tầm, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, đồng thời tuyên truyền, vận động đồng bào xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh, tiến bộ. “Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi”8. Quân đội có thể phối hợp với ngành giáo dục, y tế và các ngành chức năng khác tổ chức các hoạt động nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, như mở lớp xóa mù chữ, phổ cập giáo dục, khám, chữa bệnh miễn phí, tư vấn sức khỏe, phòng chống dịch bệnh.

Quân đội đóng vai trò nòng cốt trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở vùng dân tộc thiểu số. Phối hợp với địa phương xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, xây dựng các công trình phòng thủ, bố trí lực lượng hợp lý, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Phối hợp chặt chẽ với công an, biên phòng và các lực lượng chức năng khác trong nắm tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ việc phức tạp liên quan đến dân tộc, tôn giáo, không để các thế lực thù địch lợi dụng kích động, gây rối.

Quân đội cần tăng cường giáo dục quốc phòng, an ninh cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần yêu nước, bảo vệ Tổ quốc. Nội dung giáo dục cần phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn, chú trọng trang bị kiến thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo. Tăng cường sự phối hợp hiệp đồng tác chiến giữa Quân đội với lực lượng công an, biên phòng và các lực lượng chức năng khác trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới, đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Thứ tư, nâng cao năng lực cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội và cán bộ hệ thống chính trị cơ sở.

Cần tăng cường bồi dưỡng lý luận chính trị, đặc biệt là kiến thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ Quân đội và cán bộ hệ thống chính trị cơ sở. Nâng cao nhận thức về quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc, về vị trí, vai trò của công tác dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần chú trọng trang bị kiến thức về dân tộc học, văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội và cán bộ hệ thống chính trị cơ sở. Nâng cao hiểu biết về đặc điểm kinh tế – xã hội, văn hóa, phong tục tập quán, ngôn ngữ của từng dân tộc, giúp cán bộ, chiến sĩ có thể giao tiếp, ứng xử phù hợp với đồng bào dân tộc thiểu số. Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ công tác dân vận, công tác dân tộc cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội và cán bộ hệ thống chính trị cơ sở. Trang bị kiến thức, kỹ năng về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, công tác tham mưu, đề xuất, công tác tổ chức, chỉ đạo, điều hành công tác dân tộc.

Tăng cường bồi dưỡng nhận thức về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội và cán bộ hệ thống chính trị cơ sở. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, tinh thần đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc, kích động, chia rẽ của các thế lực thù địch. Cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số trong Quân đội và hệ thống chính trị cơ sở. Ưu tiên tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng con em đồng bào dân tộc thiểu số vào các trường quân sự, các trường đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước. Tạo điều kiện để cán bộ là người dân tộc thiểu số phát huy vai trò trong công tác dân tộc.

Thứ năm, đổi mới hình thức, phương pháp hoạt động phối hợp.

Tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa các đơn vị quân đội với chính quyền, các tổ chức quần chúng và nhân dân các dân tộc. Thông qua giao lưu, kết nghĩa, tăng cường sự hiểu biết, gắn bó, tin tưởng lẫn nhau giữa Quân đội và nhân dân, tạo môi trường thuận lợi cho sự phối hợp thực hiện công tác dân tộc. Phát huy vai trò của các tổ, đội công tác, cán bộ tăng cường cơ sở trong thực hiện công tác dân tộc. Các tổ, đội công tác, cán bộ tăng cường cơ sở là lực lượng nòng cốt, trực tiếp thực hiện công tác dân tộc ở cơ sở. Cần tăng cường đầu tư về lực lượng, phương tiện, kinh phí cho các tổ, đội công tác, cán bộ tăng cường cơ sở, tạo điều kiện để họ hoạt động hiệu quả. Tổng kết, đánh giá các mô hình phối hợp hiệu quả đã được triển khai trong thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình này ra các địa phương, đơn vị khác. Nghiên cứu, xây dựng các mô hình phối hợp mới, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, đơn vị.

5. Kết luận

Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Những thành tựu đạt được đã minh chứng cho sự nỗ lực không ngừng và đóng góp to lớn của Quân đội. Để phát huy cao độ vai trò này, cần phải tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường sự lãnh đạo và chỉ đạo từ các cấp ủy Đảng, chính quyền và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác dân tộc. Sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ban ngành, các cấp, các lực lượng và việc bảo đảm nguồn lực đầy đủ, kịp thời là yếu tố quyết định để công tác dân tộc đạt hiệu quả cao. Quân đội nhân dân Việt Nam cần tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, giữ vững vị thế là lực lượng quan trọng, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hiện thực hóa thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, vì sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003). Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác dân tộc.
2, 3, 4, 5, 6. Quân ủy Trung ương (2022). Báo cáo số 1494-BC/QUTW ngày 03/11/2022 về tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 572-CT/QUTW ngày 05/10/2012 của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về Quân đội thực hiện công tác dân tộc trong tình hình mới.
7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 140 – 141.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
2. Quân ủy Trung ương (2012). Chỉ thị số 572-CT/QUTW về quân đội thực hiện công tác dân tộc trong tình hình mới.
3. Quân ủy Trung ương (2020). Báo cáo Chính trị của Quân ủy Trung ương nhiệm kỳ 2015-2020 tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI.
4. Quân ủy Trung ương (2021). Quy chế số 718-QC/QUTW ngày 05/11/2021 về công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam.