PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
(Quanlynhanuoc.vn) – Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đề ra nhiệm vụ và giải pháp bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 27-NQ/TW, bài viết làm rõ thêm cơ chế tham gia của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam; thực trạng và giải pháp, kiến nghị bảo đảm cơ chế tham gia của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam.
Từ khóa: Cơ chế tham gia của người dân; bảo đảm liêm chính tư pháp; thực trạng và giải pháp, kiến nghị, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
1. Cơ chế tham gia của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam
(1) Cơ chế tham gia trực tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam.
Cơ chế tham gia trực tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam chủ yếu được thực hiện thông qua quyền phát hiện, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng, tiêu cực. Theo đó, người dân có quyền phát hiện, phản ánh, tố cáo, tố giác, báo tin về hành vi tham nhũng, tiêu cực và được bảo vệ, khen thưởng theo quy định của pháp luật; có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Người dân có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ quan, tổ chức, người dân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Người dân có quyền phản ánh, tố cáo về hành vi tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền khi nhận được phản ánh, tố cáo về hành vi tham nhũng, tiêu cực phải xem xét, xử lý kịp thời và áp dụng các biện pháp bảo vệ người phản ánh, tố cáo. Việc tiếp nhận, giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng, tiêu cực được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Việc tiếp nhận, xử lý phản ánh về hành vi tham nhũng, tiêu cực được thực hiện theo quy định của pháp luật về tiếp công dân.
Việc bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo. Người phản ánh, báo cáo về hành vi tham nhũng, tiêu cực được áp dụng các biện pháp bảo vệ như bảo vệ người tố cáo. Người có thành tích trong việc phản ánh, tố cáo về hành vi tham nhũng, tiêu cực thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Người phản ánh về hành vi tham nhũng, tiêu cực phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực của nội dung phản ánh, báo cáo. Người tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực phải chịu trách nhiệm về việc tố cáo của mình theo quy định của Luật Tố cáo.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; phản biện xã hội, kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kiến nghị việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực; động viên Nhân dân tham gia tích cực vào việc phát hiện, phản ánh, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng, tiêu cực; cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, người dân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực; giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, người dân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, xác minh vụ việc tham nhũng, tiêu cực, xử lý người có hành vi tham nhũng, tiêu cực, thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực, kiến nghị việc bảo vệ, khen thưởng người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, người dân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, kiến nghị; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
(2) Cơ chế tham gia gián tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam.
Cơ chế tham gia gián tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam được thực hiện thông qua hoạt động giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của các cơ quan dân cử, cụ thể là các cơ quan: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong phạm vi cả nước. Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực phụ trách. Ủy ban Pháp luật và tư pháp của Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, giám sát việc phát hiện và xử lý tham nhũng, tiêu cực.
Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại địa phương. Trong các chủ thể này, Quốc hội và Hội đồng nhân dân là chủ thể chính của cơ chế tham gia gián tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam.
Các cơ quan dân cử giám sát hoạt động tư pháp thông qua các hình thức, như: xem xét báo cáo công tác của cơ quan tư pháp; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp; chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn của người đứng đầu cơ quan tư pháp theo quy định; giám sát chuyên đề việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực tư pháp; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ trong các cơ quan tư pháp do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trong lĩnh vực tư pháp; tổ chức hoạt động giải trình những vấn đề thuộc trách nhiệm thi hành của cơ quan tư pháp.
Mỗi chủ thể giám sát có thẩm quyền thực hiện các hình thức giám sát khác nhau; việc thực hiện các hình thức giám sát bảo đảm tuân thủ theo trình tự, thủ tục nhất định, từ khâu xây dựng chương trình giám sát, thành lập đoàn giám sát, tổ chức đoàn làm việc với các đối tượng chịu sự giám sát, xem xét vụ việc cụ thể, xây dựng báo cáo kết quả giám sát, ban hành nghị quyết giám sát…
Ngoài ra, cần lưu ý, mục đích giám sát của các cơ quan dân cử là nhằm bảo đảm cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để, nghiêm chỉnh và thống nhất, các cơ quan tư pháp hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn do luật định. Nếu chỉ dựa vào các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành giám sát thì các chủ thể sẽ rất khó đánh giá trách nhiệm thực thi nhiệm vụ tư pháp của các đối tượng chịu sự giám sát. Do đó, giám sát hoạt động tư pháp của các cơ quan dân cử không chỉ tuân thủ các quy định của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành giám sát mà còn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp (Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành án hình sự, Luật Thi hành án dân sự...). Những văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp.
2. Thực trạng cơ chế tham gia của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam
a. Về cơ chế tham gia gián tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam
Những năm qua, Ðảng và Nhà nước luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác dân nguyện, nhất là công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan dân cử, đại biểu dân cử luôn được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quan tâm và từng bước có nhiều đổi mới, chất lượng, hiệu quả ngày càng được nâng lên; các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội luôn phát huy trách nhiệm, chủ động, linh hoạt trong hoạt động tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo qua đó đã góp phần thúc đẩy, nâng cao trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương trong việc thực hiện tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Qua giám sát cho thấy pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và pháp luật có liên quan ngày càng được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, thống nhất, bảo đảm để thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời, giúp các cơ quan nhà nước, người có trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định; bảo đảm gắn công tác tiếp công dân với giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, kéo dài được dư luận, cử tri và Nhân dân quan tâm và đồng tình, ủng hộ.
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, qua giám sát cho thấy việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn một số tồn tại hạn chế, bất cập. Một số quy định, nội dung hướng dẫn chưa bảo đảm tính thống nhất với pháp luật có liên quan; tính khả thi trong thực tiễn còn hạn chế; có nội dung chưa có quy định hoặc hướng dẫn ban hành còn chậm, chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung khi không còn phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Việc tiếp công dân định kỳ của người đứng đầu ở một số bộ, ngành, địa phương chưa được quan tâm, thực hiện đầy đủ theo quy định của luật. Phân loại đơn thư còn nhầm lẫn giữa đơn khiếu nại, tố cáo với đơn kiến nghị, phản ánh.
Chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là giải quyết lần đầu ở cấp huyện chưa tốt, còn sai sót; một số cán bộ, công chức thiếu ý thức trách nhiệm, không thực hiện đúng quy định của pháp luật về thời hạn, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo; chưa quan tâm đúng mức đến việc tiếp, đối thoại, lắng nghe ý kiến của công dân; trách nhiệm phối hợp trong tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đầy đủ; một số người khiếu nại, tố cáo không chấp hành nghiêm chỉnh quyết định, kết luận giải quyết đúng và đã có hiệu lực pháp luật, thậm chí lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để gây phức tạp thêm tình hình. Nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo, nhất là những vụ việc liên quan đến bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi thu hồi đất thực hiện các dự án và đề nghị xem xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được quan tâm giải quyết dứt điểm, để kéo dài, gây bức xúc, tiềm ẩn nguy cơ thành “điểm nóng” về an ninh trật tự; hiệu quả kiểm tra, rà soát lại việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, kéo dài còn hạn chế.
Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo hiệu quả chưa cao; kết luận thanh tra, kiểm tra còn chung chung, xử lý cán bộ, công chức vi phạm chưa nghiêm, chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Thực hiện chức năng kiểm sát đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, kiểm sát đối với án dân sự, án hành chính còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân và tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm đúng mức; một số công chức năng lực trình độ vẫn còn hạn chế. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hình thức, kém hiệu quả. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cập nhật dữ liệu, quản lý đơn thư khiếu nại, tố cáo hiệu quả chưa cao.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân, bên cạnh nguyên nhân do quy định pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo một số nội dung còn bất cập thì nguyên nhân chủ quan chủ yếu là việc tổ chức, thực hiện tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số ngành, địa phương còn nhiều hạn chế, chưa sâu sát, thiếu quyết liệt, phối hợp chưa chặt chẽ, chưa làm hết nhiệm vụ được giao; người đứng đầu một số cơ quan đơn vị chưa quan tâm đúng mức đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là trong việc chỉ đạo, đôn đốc, phối hợp giải quyết dứt điểm các vụ việc tiềm ẩn yếu tố phức tạp ngay từ khi mới phát sinh ở cấp cơ sở.
b. Về cơ chế tham gia gián tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam
Trong những năm qua, Quốc hội ngày càng chú trọng đến công tác giám sát hoạt động tư pháp và đạt nhiều kết quả rất tích cực. Hằng năm, vào kỳ họp cuối năm, Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng; báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Có thể nói đây là hoạt động giám sát về lĩnh vực tư pháp được thực hiện thường xuyên, đều đặn nhất của Quốc hội. Quốc hội đã dành thời gian để thảo luận, xem xét các báo cáo một cách nghiêm túc, trách nhiệm, thẳng thắn; từ đó, có cơ sở đánh giá, xem xét một cách khách quan, đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, sát thực tế, góp phần quan trọng vào việc kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Những năm gần đây, trên cơ sở kết quả xem xét, thảo luận tại hội trường về công tác tư pháp, Quốc hội đã ban hành nhiều nghị quyết về công tác tư pháp, như: Nghị quyết số 37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2013; Nghị quyết số 63/2013/QH13 ngày 27/11/2013 về tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm; Nghị quyết số 67/2013/QH13 về việc tăng cường công tác triển khai thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; Nghị quyết số 96/2015/QH13 ngày 26/6/2015 về tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm tiếp theo; Nghị quyết số 113/2015/QH13 về tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Quốc hội (khóa XIII) về hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn; Nghị quyết thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội (khóa XIV) về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án,… thể hiện bước phát triển mới trong công tác giám sát của Quốc hội trong lĩnh vực này.
Bên cạnh nhiều kết quả đã đạt được, công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp thời gian qua còn một số hạn chế, như: giám sát các chuyên đề lớn về tư pháp (ở cấp độ giám sát tối cao của Quốc hội) chưa được nhiều. Một số cuộc giám sát chưa sâu; cách thức tiến hành giám sát vẫn chủ yếu nghe các cơ quan tư pháp báo cáo; chưa tổ chức cho các đơn vị chuyên môn xuống địa phương trước để nắm tình hình, rút hồ sơ nghiên cứu các vụ án cụ thể. Việc giám sát đối với các vụ án bức xúc, dư luận xã hội quan tâm chưa tiến hành được nhiều. Hoạt động giám sát chuyên đề chủ yếu vẫn dựa trên việc xem xét báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát, thông tin từ các chuyên gia, các cơ quan nghiên cứu, hoạt động độc lập còn chưa nhiều; việc cung cấp thông tin của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chậm hoặc thông tin chưa được sử dụng hiệu quả.
Một số cơ quan chịu sự giám sát chưa thực hiện nghiêm túc yêu cầu của Đoàn giám sát, việc gửi báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát còn chưa đúng thời hạn, chất lượng một số báo cáo còn chưa đạt yêu cầu. Hoạt động giải trình chưa được quan tâm đúng mức, chưa cân đối với các hoạt động giám sát, khảo sát. Việc các cơ quan của Quốc hội tổ chức các phiên giải trình theo cách thức và trình tự riêng của mình do chưa có quy định thống nhất về cách thức tiến hành các phiên giải trình nên chưa tạo được tính chủ động cho các chủ thể yêu cầu giải trình đối tượng được yêu cầu giải trình, các đối tượng có liên quan cũng như các cơ quan phục vụ trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện phiên giải trình; đối tượng tham dự các phiên giải trình còn hạn chế, chưa thật đầy đủ; thiếu những thông tin mang tính phản biện, thiếu sự tham dự của những chuyên gia hoặc đối tượng chịu tác động của chính sách nên phần nào ảnh hưởng đến tính hiệu quả, hiệu lực giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội.
Công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp chưa được bố trí thời gian thật thỏa đáng; nội dung giám sát phần lớn tập trung vào những vấn đề như trách nhiệm trong việc bảo đảm tiến độ ban hành văn bản, số văn bản chưa được ban hành theo quy định; việc phát hiện các văn bản có quy định không phù hợp, còn chồng chéo, mâu thuẫn… chưa được nhiều.
Thực tế giải quyết một số vụ án hình sự cho thấy, vi phạm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến vi phạm, tội phạm và gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng cho xã hội. Việc giám sát của một số Hội đồng nhân dân đối với hoạt động các cơ quan tư pháp còn hình thức, hiệu quả chưa cao; nhiều địa phương chưa ban hành nghị quyết riêng về hoạt động tư pháp. Báo cáo trước tập thể Hội đồng nhân dân tại kỳ họp chủ yếu là báo cáo về hoạt động giám sát, còn kết quả giám sát có đáp ứng được mục đích, yêu cầu đề ra hay không và mang lại hiệu quả như thế nào trong thực tế thì chưa được Hội đồng nhân dân tổng kết, đánh giá.
Trong nhiệm kỳ vừa qua, tuy Thường trực Hội đồng nhân dân tổ chức nhiều đoàn giám sát nhưng rất ít đoàn giám sát hoạt động tư pháp; chưa có nhiều đợt giám sát đột xuất các vấn đề bức xúc được cử tri và nhân dân quan tâm mà chủ yếu tập trung vào những vấn đề định kỳ thường xuyên. Một số cuộc khảo sát, giám sát của các ban chưa mang lại hiệu quả thiết thực; khi kết thúc khảo sát, giám sát không đưa ra được kết luận cụ thể hoặc kiến nghị biện pháp xử lý còn chung chung; chưa chú ý kết hợp giám sát theo chương trình, kế hoạch định kỳ với giám sát những vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế – xã hội theo yêu cầu, nguyện vọng của cử tri và những vấn đề mới phát sinh. Hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động tái giám sát còn ít…
Nguyên nhân của hạn chế là do một số quy định của pháp luật chưa rõ, chưa đầy đủ; một số vấn đề chưa có thể chế điều chỉnh. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 tuy đã quy định về thẩm quyền, nhiệm vụ của từng chủ thể giám sát, nhưng chưa phân định rõ phạm vi, đối tượng giám sát, dẫn đến việc cùng một đối tượng nhưng có nhiều cơ quan có thẩm quyền giám sát. Bên cạnh đó, nội dung, tiêu chí, thẩm quyền tiến hành giám sát đối với các vụ án cụ thể cũng chưa được thể hiện rõ trong Luật. Một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc chung, thiếu hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến những vướng mắc, bất cập trong thực hiện. Chưa quy định cụ thể về định kỳ xem xét việc giải quyết kiến nghị giám sát tại các kỳ họp Quốc hội, phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội; về việc tiếp nhận, tổng hợp các kiến nghị giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội. Chưa có chế tài cụ thể trong trường hợp cơ quan chức năng chậm hoặc không giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân do đại biểu Quốc hội chuyển đến. Chưa cụ thể quy trình để đại biểu Quốc hội tự mình thực hiện giám sát; cách thức tiến hành các phiên giải trình; nhiệm vụ, quyền hạn, cách thức, thủ tục để Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân có thể thực hiện giám sát đối với một số hoạt động của cơ quan tư pháp ở địa phương.
Nhận thức về vai trò của hoạt động tư pháp và tầm quan trọng của công tác giám sát hoạt động tư pháp, về trách nhiệm giám sát hoạt động tư pháp của một số đại biểu dân cử, một số đối tượng chịu sự giám sát và một số thành viên được mời tham gia giám sát còn chưa đầy đủ. Trong một số trường hợp, đại biểu dân cử, đối tượng chịu sự giám sát và thành viên được mời tham gia giám sát chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm và khả năng của mình khi thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Còn tồn tại tư tưởng xem nhẹ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của hoạt động tư pháp và công tác giám sát hoạt động tư pháp. Khối lượng công việc của các cơ quan dân cử khá lớn, nhiều việc phức tạp, áp lực về thời gian, một số nội dung giám sát có phạm vi rộng, tính chuyên sâu cao đòi hỏi yêu cầu cao về thời gian và chất lượng, trong khi các cơ quan dân cử chưa có đủ thời gian và nguồn lực dành cho công tác giám sát hoạt động tư pháp.
Pháp luật tuy có quy định có nhiều hình thức giám sát nhưng việc sử dụng hình thức giám sát chưa linh hoạt, chưa tận dụng hết các thẩm quyền được pháp luật quy định trong hoạt động giám sát. Số lượng đại biểu dân cử hoạt động chuyên trách còn ít, phần lớn là đại biểu kiêm nhiệm nên khó khăn trong sắp xếp thời gian tham gia giám sát hoạt động tư pháp, trong khi công tác giám sát hoạt động tư pháp đòi hỏi phải có nhiều thời gian.
Hơn nữa, đại biểu kiêm nhiệm vừa tham gia cơ quan quyền lực, vừa tham gia cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp nên rất khó bảo đảm tính khách quan và chính xác trong công tác giám sát. Một số đoàn đại biểu có số lượng đại biểu khá ít, khó triển khai được nhiều hoạt động giám sát. Công tác phối hợp chưa chặt chẽ, chưa hiệu quả; việc gửi tài liệu báo cáo đoàn giám sát đôi khi còn chậm, cá biệt có trường hợp chỉ gửi trực tiếp tại cuộc làm việc hoặc chỉ gửi dự thảo báo cáo; nội dung nhiều báo cáo còn sơ sài, ít số liệu minh chứng nên báo cáo của Đoàn giám sát có nội dung phản ánh chưa hết; việc dự họp của địa phương đôi khi chưa đủ, chưa đúng thành phần.
3. Kiến nghị mang tính giải pháp bảo đảm cơ chế tham gia của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam
Thứ nhất, bảo đảm cơ chế tham gia trực tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam.
(1) Đối với các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Tiếp tục đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát đối với một số ngành, lĩnh vực, địa phương, trong đó chú trọng việc giám sát trực tiếp tại các bộ, ngành, địa phương phát sinh nhiều vụ việc phức tạp, nổi cộm, bức xúc trong Nhân dân; tăng cường công tác giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực phụ trách; phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành hữu quan trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động tư pháp và một số lĩnh vực khác thường phát sinh nhiều khiếu nại, tố cáo.
Giao Ban Dân nguyện chủ trì, phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết vụ việc cụ thể và định kỳ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp hằng tháng. Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố tiếp tục đổi mới, linh hoạt, nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và giám sát việc tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Chủ động theo dõi, đôn đốc, giám sát và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp kéo dài, các vụ việc có dấu hiệu phức tạp về an ninh trật tự trên địa bàn và định kỳ hằng tháng báo cáo kết quả thực hiện đến Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
(2) Đối với Tòa án nhân dân tối cao. Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể việc tiếp công dân của ngành Tòa án nhân dân. Chủ động rà soát các quy định phối hợp liên ngành trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động tư pháp để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các quy định hiện hành, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn và Báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội kết quả thực hiện. Nghiên cứu, đánh giá toàn diện về khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết án hành chính để có giải pháp khắc phục; đồng thời, nghiên cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về tố tụng hành chính để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và phù hợp với thực tiễn. Hướng dẫn Tòa án nhân dân các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết và phối hợp với Ủy ban nhân dân trong việc giải quyết vụ án hành chính. Tiếp tục triển khai những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Chú trọng công tác giám đốc, kiểm tra việc xét xử để sớm phát hiện những sai sót, sai phạm trong các hoạt động tố tụng của cơ quan Tòa án cấp dưới, nhất là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp và xem xét lại quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục và góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xét xử của ngành Tòa án. Nghiên cứu, phối hợp với Thanh tra Chính phủ để xây dựng quy chế phối hợp và tổ chức việc tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân ở Trung ương, chỉ đạo Tòa án nhân dân các cấp có cơ chế phối hợp tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân địa phương. Kết quả thực hiện đề nghị báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
(3) Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao rà soát một số thông tư liên tịch về công tác phối hợp trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính; về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm… phù hợp với quy định hiện hành, thực hiện chức năng kiểm sát của cơ quan kiểm sát và tháo gỡ vướng mắc trên thực tiễn. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp; kiểm sát đối với án dân sự, án hành chính; xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại của ngành kiểm sát đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện có sai phạm để kịp thời chấn chỉnh, khắc phục, tổng kết, rút kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát của ngành kiểm sát.
Tăng cường công tác hướng dẫn Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện chức năng kiểm sát trong hoạt động tư pháp, nhất là kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. Chỉ đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện nghiên cứu xây dựng quy chế phối hợp tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân ở địa phương.
(4) Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội. Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội tăng cường phối hợp với các cơ quan trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp tục phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh tại địa phương, đặc biệt là các vụ việc nổi cộm có tính chất phức tạp, kéo dài.
Thứ hai, bảo đảm cơ chế tham gia gián tiếp của người dân trong bảo đảm liêm chính tư pháp ở Việt Nam.
(1) Hoàn thiện thể chế giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp. Tổng kết việc thực hiện Luật và sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 để khắc phục những quy định chưa cụ thể hoặc còn thiếu nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 được Quốc hội (khóa XIII) thông qua tại kỳ họp thứ 10, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016.
Thực tế cho thấy, một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc chung, thiếu hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến những vướng mắc, bất cập trong thực hiện, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát, như: chưa có quy định cụ thể về quy trình, tiêu chí lựa chọn chủ đề, nội dung, số lượng chuyên đề đưa vào chương trình hoạt động giám sát hằng năm; thiếu những quy định cụ thể, thống nhất về trình tự, thủ tục thành lập các đoàn giám sát, yêu cầu kết cấu nội dung các văn bản liên quan, phạm vi trách nhiệm tham gia, phối hợp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Văn phòng Quốc hội trong hoạt động giám sát chuyên đề; thiếu quy trình, thủ tục ban hành nghị quyết về kết quả giám sát; trong hoạt động chất vấn, chưa quy định rõ về trình tự, thủ tục, tiêu chí lựa chọn nội dung chủ đề chất vấn, danh sách người trả lời chất vấn, việc đánh giá kết quả phiên chất vấn, quy trình, thủ tục xem xét, thảo luận về hậu giám sát tại kỳ họp cuối năm, giữa nhiệm kỳ và kết thúc nhiệm kỳ…
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, căn cứ Hiến pháp năm 2013, cần nghiên cứu hoàn thiện cơ chế đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện việc “kiểm soát” hoạt động của cơ quan tư pháp. Trên cơ sở nguyên tắc quyền lực nhà nước là “thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước”, sự kiểm soát của Quốc hội đối với hoạt động của cơ quan tư pháp về lâu dài chỉ nên tập trung vào giám sát trách nhiệm chính trị, theo đó, quy định rõ nội dung giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc thực hiện pháp luật và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan tư pháp; về trách nhiệm giải trình của các chủ thể liên quan trước Quốc hội về hoạt động của các cơ quan tư pháp; về sử dụng ngân sách của các cơ quan tư pháp.
Điều chỉnh quy định thẩm quyền giám sát, hình thức giám sát, nội dung giám sát sao cho phù hợp với khả năng và điều kiện thực hiện của một số chủ thể thực hiện quyền giám sát, như: thẩm quyền giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội… Đồng thời, cần bổ sung các quy định pháp luật để xác lập các điều kiện, tiêu chí, yêu cầu về phạm vi giám sát đối với các vụ án cụ thể để bảo đảm tính khả thi, chặt chẽ, phù hợp, bảo đảm tính độc lập của hoạt động xét xử.
Ví dụ, chỉ tiến hành giám sát vụ án cụ thể khi đã có quyết định cuối cùng có hiệu lực pháp luật của cơ quan tư pháp, người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp; đã được cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định của pháp luật. Không giám sát đối với các vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử…
(2) Đổi mới tổ chức và hoạt động của thiết chế giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động tư pháp và tầm quan trọng của công tác giám sát hoạt động tư pháp, về trách nhiệm giám sát hoạt động tư pháp của đại biểu dân cử, đối tượng chịu sự giám sát và thành viên được mời tham gia giám sát. Chú trọng nâng cao chất lượng đại biểu, giảm số lượng đại biểu công tác tại các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, tăng tỷ lệ đại biểu có trình độ, năng lực, kỹ năng và điều kiện hoạt động Quốc hội.
Có cơ chế để các chuyên gia đã quá tuổi quy định nhưng có uy tín, kinh nghiệm, kiến thức sâu được ứng cử đại biểu Quốc hội. Đề nghị sớm xây dựng phương án khung về nhân sự đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ khóa sau, trong đó, quan tâm hơn đến công tác quy hoạch, tạo nguồn đại biểu Quốc hội chuyên trách từ đội ngũ tham mưu, giúp việc cho Quốc hội. Bảo đảm số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách theo quy định (ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội), tạo lực lượng nòng cốt trong triển khai các hoạt động của Quốc hội, góp phần tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Bảo đảm bố trí số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách Ủy ban Pháp luật và Tư pháp tăng lên, ít nhất trong khoảng từ 12 đến 16 người để bảo đảm tính chuyên sâu và quyết định các vấn đề của Ủy ban được nhanh chóng, kịp thời chính xác và cũng không làm tăng biên chế vì hiện nay, đại biểu kiêm nhiệm cũng là những người trong biên chế nhà nước.
Nâng cao năng lực hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân. Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân phải hoạt động chuyên trách, không được giữ một chức vụ nào trong cơ quan nhà nước khác. Bởi lẽ, trong xu thế phát huy hết vai trò các thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân, chế độ kiêm nhiệm sẽ làm giảm hiệu quả, chi phối hoạt động của họ và làm hạn chế khả năng điều hành của Thường trực Hội đồng nhân dân. Khi bầu Thường trực Hội đồng nhân dân, bên cạnh bảo đảm về mặt cơ cấu cần phải chú ý đến năng lực của từng thành viên. Thành viên của Thường trực Hội đồng nhân dân phải là người có đạo đức, có trách nhiệm và năng lực tổ chức điều hoà phối hợp trong công việc; phải là người có kiến thức sâu, có khả năng giám sát hoạt động tư pháp.
(3) Đổi mới phương thức vận hành cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp. Tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát – khâu trọng tâm, “mũi nhọn” để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Xây dựng chương trình giám sát bám sát tình hình thực tiễn, tập trung vào những hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp. Bảo đảm cân đối giữa các hoạt động giám sát (xem xét báo cáo, giám sát chuyên đề, chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật…), mặt khác, đẩy mạnh một số hoạt động được quan tâm (như: chất vấn, giải trình).
Tăng cường tính tranh luận, đi sâu làm rõ vấn đề, trách nhiệm trong thảo luận, xem xét các báo cáo công tác của các cơ quan tư pháp. Đổi mới hơn nữa hoạt động chất vấn theo hướng tăng cường hoạt động chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tập trung tổ chức chất vấn những nội dung hoặc vấn đề thực sự bức xúc, nổi lên cần phải được làm rõ, cần phải xử lý ngay và được nhiều đại biểu Quốc hội yêu cầu; ban hành Nghị quyết về chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đổi mới phương thức tiến hành giám sát lại; đẩy mạnh hoạt động giải trình tại phiên họp của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban.
(4) Chú trọng các điều kiện bảo đảm thực hiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử đối với hoạt động tư pháp.Tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng trong hoạt động giám sát, nhất là thực hiện kiến nghị sau giám sát. Để bảo đảm hoạt động giám sát toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, điều hành chung, sự chỉ đạo này là rất cần thiết. Tuy nhiên, cần tranh thủ sâu hơn sự lãnh đạo của cấp ủy đối với việc xử lý vấn đề sau giám sát.
Thông qua Đảng đoàn, Thường trực Hội đồng nhân dân báo cáo cấp ủy về những kết quả quan trọng trong giám sát, giải trình, chất vấn. Một mặt, các cơ quan của Hội đồng nhân dân chủ động thực hiện các chế tài giám sát, theo dõi, đôn đốc thực hiện kiến nghị sau giám sát, chất vấn theo thẩm quyền, một mặt, cần tham mưu cho cấp ủy chỉ đạo các đơn vị chấn chỉnh, thực hiện nghiêm các kiến nghị của Hội đồng nhân dân, có thể giao Ủy ban Kiểm tra xem xét, đưa vào chương trình kiểm tra hoặc có kế hoạch sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách nếu thấy cần thiết. Như vậy, những kiến nghị sau giám sát, chất vấn, giải trình chắc chắn sẽ không bị lãng quên, hiệu quả cũng cao hơn.
Nghiên cứu, thiết lập cơ chế giúp việc có hiệu quả cho đại biểu Quốc hội, bảo đảm điều kiện và tăng cường năng lực hoạt động cho đại biểu Quốc hội. Tăng cường các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động giám sát của các đoàn đại biểu Quốc hội và cá nhân đại biểu Quốc hội. Đổi mới và tăng cường năng lực bộ phận giúp việc cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội. Tăng cường trao đổi kinh nghiệm dưới hình thức tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị, tập huấn ở cấp địa phương, khu vực, quốc để bồi dưỡng kỹ năng giám sát tư pháp cho đại biểu dân cử. Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng chất vấn cho đại biểu dân cử. Hoàn thiện cơ chế thu hút sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học trong công tác giám sát hoạt động tư pháp…
Kiện toàn tổ chức bộ máy Văn phòng theo hướng thống nhất, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự hợp lý, rõ ràng trong việc phân định chức năng, nhiệm vụ, có tính ổn định, nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn sâu trong phục vụ hoạt động của Quốc hội. Tăng cường đội ngũ công chức làm công tác tham mưu; tạo điều kiện để các vụ, đơn vị tập trung làm tốt nhiệm vụ tham mưu, phục vụ Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có cơ chế phù hợp để thu hút các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu về lĩnh vực tư pháp. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân.
Nghiên cứu xây dựng chế độ định mức hợp lý phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, trong đó quy định cụ thể mức chi nghiên cứu, thẩm định các báo cáo giám sát hoạt động tư pháp; thực hiện cơ chế thuê chuyên gia, tổ chức tư vấn đánh giá độc lập để giúp cho việc tổ chức giám sát chuyên sâu theo từng vấn đề, nội dung giám sát. Số hóa công tác xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo, chia sẻ thông tin trong nội bộ các cơ quan của Quốc hội và cơ quan hữu quan; trong đó hoàn thiện phần mềm điện tử quản lý chung để ứng dụng cho tất cả các tỉnh, thành phố; tránh tình trạng chuyển đơn dàn trải, gây lãng phí.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng đoàn Quốc hội (2019). Báo cáo số 1420-BC/ĐĐQH14 ngày 23/8/2019 tổng kết Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
2. Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội (2021). Báo cáo số 18/BC-ĐĐBQH ngày 17/11/2021 đánh giá thực trạng và đề xuất, kiến nghị đổi mới hoạt động giám sát.
3. Quốc hội (khóa XIV) (2021). Báo cáo số 10/BC-QH14 ngày 08/4/2021 về công tác của Quốc hội nhiệm kỳ, khóa XIV.
4. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2020). Báo cáo số 524/BC-UBTVQH14 ngày 29/4/2020 về kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội năm 2019.
5. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2021). Báo cáo số 771/BC-UBTVQH14 ngày 22/3/2021 về công tác của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ Quốc hội, khóa XIV.
6. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2022). Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH15 ngày 07/10/2022 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
7. Ủy ban Tư pháp (2016). Kỷ yếu Ủy ban Tư pháp nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XIII) (2011-2016), Lưu hành nội bộ, trang 956.
8. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2019). Báo cáo số 179/BC-VKSTC ngày 10/10/2019 về công tác của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội, khóa XIV.