ThS. Nguyễn Hà Thơ
Trường Đại học An ninh nhân dân
NCS Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những khó khăn, thách thức. Thời gian qua, công cuộc xây dựng, phát triển con người ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong giai đoạn hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Vì lẽ đó, rất cần được tổng kết, đánh giá để có giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện trong thời gian tới.
Từ khóa: Xây dựng, phát triển con người, con người toàn diện, xã hội chủ nghĩa.
1. Thực trạng xây dựng con người phát triển toàn diện ở Việt Nam hiện nay
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng, phát triển con người toàn diện là một trong những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh vắn tắt tháng 02/1930 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là “đi tới xã hội cộng sản”; đồng thời cụ thể hóa thành các nhiệm vụ giải phóng con người cơ bản, như: “nam nữ bình quyền”, “phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa”… Trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay), sự nghiệp xây dựng, phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục đạt nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, sự nghiệp này vẫn tồn tại những khó khăn, thách thức nhất định, cụ thể như sau:
Một là, thành tựu xây dựng con người phát triển toàn diện trên phương diện kinh tế.
Với việc xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong 3 trụ cột quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên phương diện kinh tế. Dấu ấn nổi bật về kinh tế của nước ta sau gần 40 năm đổi mới được biểu hiện qua thu nhập bình quân đầu người với diễn tiến rất tích cực, cụ thể: năm 1986, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ đạt 100USD/1người/1 năm, đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đã vượt ngưỡng 1.000 USD/người/ năm.
Đặc biệt, năm 2024 mặc dù phải đối diện với thiên tai, bão lũ nghiêm trọng, nhưng GDP bình quân đầu người của Việt Nam không ngừng khởi sắc, đạt khoảng 4.700 USD/người/năm. Những thành quả quan trọng trong trụ cột kinh tế nêu trên, về cơ bản đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đời sống của Nhân dân. Đây là cơ sở quan trọng để người dân có điều kiện phát triển đồng bộ các lĩnh vực, các giá trị khác trong đời sống xã hội.
Những thành tựu kinh tế đã đạt được dưới ngọn cờ của Đảng là không thể phủ nhận, song, thực chất sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian vừa qua chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế hiện có; chưa gắn kết chặt chẽ với chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của quá trình phát triển. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, trước ảnh hưởng của cơ chế thị trường, giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế, đã và đang đặt ra những nguy cơ đe dọa đến sự phát triển nhân cách, lối sống con người Việt Nam. Việc quá chú trọng chạy theo lợi ích vật chất, lợi ích cá nhân có thể dẫn đến những biến dạng về tình người, văn hóa, suy thoái đạo đức, làm cho sự phát triển của “con người mới” đứng trước nguy cơ bị méo mó, thậm chí đối lập với giá trị đạo đức truyền thống.
Thực tiễn cho thấy, các giá trị truyền thống của Việt Nam trong những năm gần đây có biểu hiện phai nhạt, quan hệ tình làng, nghĩa xóm, giá trị gia đình, cộng đồng, tinh thần bao dung, nhân văn, lương tâm nghề nghiệp… đang đứng trước nguy cơ bị thay thế bởi những chuẩn mực, định hướng xa lạ. Lối sống thực dụng, hiếu danh, hiếu vị… từ chỗ xa lạ đang dần lấn lướt, len lỏi vào đời sống của một bộ phận không nhỏ cư dân.
Ở các trung tâm thành phố lớn, xuất hiện một bộ phận cư dân đang quay lưng lại với giá trị truyền thống, chạy theo lối sống thực dụng, văn hóa ngoại lai. Ngược lại, ở các khu vực nông thôn, lại xuất hiện xu hướng quay về với truyền thống, chú trọng phục hồi các lễ hội, phong tục, tập quán cổ truyền, với lối sống xưa cũ. Đây là yếu tố thúc đẩy sự trỗi dậy của các tệ nạn, hủ tục lạc hậu, tạo nên những con người “tối cổ”, không theo kịp với sự văn minh, tiến bộ của xã hội, trở thành rào cản trong sự phát triển toàn diện của con người.
Hai là, thành tựu xây dựng con người phát triển toàn diện trên lĩnh vực chính trị.
Cùng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được Đảng và Nhà nước ta xác định là trụ cột thứ hai trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân trong nhiều năm qua đã đạt được nhiều bước tiến quan trọng, hệ thống pháp luật được điều chỉnh kịp thời, phù hợp với thực tiễn, ngày càng chặt chẽ hơn, đồng thời, Nhà nước cũng ban hành thêm nhiều luật mới, được áp dụng có hiệu quả, đem lại những hiệu quả tích cực trong đời sống xã hội.
Trong 10 năm (từ 2014 – 2024), Nhà nước đã ban hành khoảng hơn 100 luật, pháp lệnh được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê duyệt, trong đó có nhiều luật quan trọng liên quan đền vấn đề xây dựng con người phát triển toàn diện, như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 và sửa đổi, bổ sung 2020); Bộ luật Dân sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Luật Báo chí năm 2016; Luật Trưng cầu ý dân; Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Luật An ninh mạng năm 2018; Luật Tố cáo năm 2018; Luật Đặc xá năm 2018… Các đạo luật này đã quy định đầy đủ, rõ ràng hầu hết các quyền dân sự và chính trị, các cơ chế bảo đảm và phát huy các quyền này tại Việt Nam, tạo ra bước tiến mới trong bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất, mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Những thành tựu nói trên là bước tiến quan trọng trên phương diện chính trị, tuy nhiên xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới chỉ tập trung vào xây dựng hoàn thiện thể chế pháp quyền trên phương diện Nhà nước, thể chế pháp quyền ở phương diện công dân chưa được chú ý đúng mức, chưa khơi gợi, phát huy được vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân một cách toàn diện trong mọi mặt của đời sống xã hội. Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ ở nước ta trong thời gian vừa qua còn nhiều hạn chế, chưa lý giải và kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề do thực tiễn đặt ra một cách khoa học và có hệ thống.
Hình thức dân chủ trực tiếp bị kìm hãm bởi lối sống “duy tình, duy cảm” vẫn trở nên phổ biến ở một bộ phận đông đảo các giai cấp, tầng lớp trong quần chúng nhân dân. Đáng nói nhất, một bộ phận những người thực thi công vụ (cán bộ, đảng viên) trong hệ thống chính trị còn vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, không tôn trọng quyền làm chủ của Nhân dân, bao biện, làm thay, độc đoán, gia trưởng… đã làm cho niềm tin của Nhân dân vào Đảng bị suy giảm nghiêm trọng.
Một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân sẵn sàng tin một cách vô điều kiện vào những lý thuyết ảo tưởng của các tôn giáo hơn là tin vào chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tinh thần thượng tôn pháp luật, pháp luật không vùng cấm là đặc trưng nổi bật của nhà nước pháp quyền, trong đó có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình xây dựng, ban hành hệ thống pháp luật ở nước ta có những thời điểm chưa chặt chẽ, đồng bộ; chưa có tính dự báo diễn tiến, biến động của thời cuộc. Do vậy, khi triển khai trên thực tế, dẫn đến sự chồng chéo, chưa thống nhất và thường xuyên phải điều chỉnh, gây khó khăn trong quá trình thực thi pháp luật, ảnh hưởng lớn đến việc thực hành dân chủ trong xã hội.
Ba là, thành tựu phát triển con người toàn diện trên phương diện văn hóa.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của văn hóa, coi văn hóa là trụ cột thứ ba trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, lãnh đạo việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trên cơ sở xác định văn hóa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắt kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại. Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh”1. Thực hiện chủ trương đó của Đảng, chúng ta đã có nhiều đổi mới, sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa. Một trong những thành tựu về phát triển con người toàn diện trên phương diện văn hóa mà chúng ta đã đạt được, đó là đẩy mạnh xây dựng môi trường và đời sống văn hóa lành mạnh.
Việc duy trì và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống đặc sắc, đa dạng, phong phú ở mỗi vùng miền đều được đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, việc đấu tranh, bài trừ các sản phẩm độc hại, các tập tục văn hóa lạc hậu, tiêu cực trong đời sống xã hội cũng đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Đặc biệt, ngành công nghiệp văn hóa như điện ảnh, xuất bản, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh, nghệ thuật biểu diễn, tổ chức sự kiện… đã phát triển nhanh chóng và mang lại những sản phẩm văn hóa có giá trị cho người dân. Đời sống văn hóa tinh thần như các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo rất được quan tâm, chú trọng theo hướng khơi gợi giá trị tích cực, hạn chế mặt tiêu cực.
Tuy nhiên, sự phát triển của văn hóa vẫn chưa thực sự tương xứng, chưa tạo ra tiềm năng và nguồn lực vốn có của dân tộc. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu, mang tính hình thức, một số những loại hình sinh hoạt tinh thần đáng ra nên cần được hạn chế hoặc loại bỏ nhưng vẫn đang tiếp tục có những tác động không nhỏ trong đời sống tinh thần của xã hội. Mức độ thụ hưởng văn hóa giữa các vùng miền, vùng sâu, vùng xa với đô thị và giữa các giai tầng trong xã hội vẫn chưa đồng đều, còn khoảng cách tương đối lớn. Thậm chí vẫn còn tồn tại khá nhiều những hình thức thiếu lành mạnh, đi ngược lại với hệ giá trị văn hóa dân tộc. Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu một cách dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa của nước ngoài, đã trở thành những rào cản thúc đẩy sự tiến bộ trong đời sống của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân.
Bốn là, thành tựu phát triển con người toàn diện trên lĩnh vực xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển là một trong những phương hướng quan trọng được Đảng ta thực hiện trong suốt thời kỳ đổi mới. Đảng xác định: “thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người… nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của Nhân dân”2. Vì vậy, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cho phát triển con người ở các lĩnh vực như: y tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, xóa đói, giảm nghèo, ưu đãi người có công, trợ giúp xã hội…
Công tác chăm sóc sức khỏe, bảo đảm an ninh con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh đã góp phần quan trọng nâng cao chỉ số hạnh phúc của người Việt Nam. Chỉ tính riêng trong năm 2024 chỉ số hạnh phúc của người dân tăng lên 8 bậc so với năm 2023, đứng vị trí 46 trên thế giới; tuổi thọ trung bình của Việt Nam cũng gia tăng đáng kể sau 30 năm, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023. Với những nỗ lực nói trên, Việt Nam đã trở thành một trong 10 quốc gia đáng sống trên thế giới, đây là một trong điểm tựa quan trọng tiếp tục nâng tầm vị thế của đất nước trên trường quốc tế trong thời gian tới.
Song song với những thành tựu nổi bật nêu trên, vấn đề bất bình đẳng trong xã hội vẫn là vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm ngành, các vùng, khu vực vẫn còn tương đối lớn. Đây là một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng tỷ lệ sinh con ở nước ta thời gian qua. Bên cạnh đó, vấn đề việc làm cho người lao động vẫn chưa được giải quyết triệt để, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở nước ta luôn nằm trong khoảng 1,0 – 1,1 triệu người/năm. Tỷ lệ này đã và đang tiềm ẩn nhiều vấn nạn trong xã hội phát sinh, đồng thời, cũng góp phần không nhỏ làm cho tỷ lệ hộ nghèo đa chiều có nguy cơ ngày càng tăng.
Mặt khác chỉ số phát triển sức khỏe, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng đáp ứng nhu cầu của người bệnh chưa cao. Có lúc có nơi tình trạng thiếu thuốc, thiếu thiết bị khám chữa bệnh vẫn xuất hiện, gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu tiếp cận dịch vụ của người dân. Tình trạng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, cơ chế tài chính, đặc biệt ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn chưa được đầu tư, vì vậy, chất lượng dịch vụ và chất lượng nguồn nhân lực chưa thể đáp ứng được mong mỏi của người bệnh, nhất là khi dịch bệnh bùng phát. Ngoài ra, bộ máy tổ chức, cách thức quản trị y tế và tư duy tài chính mặc dù có sự điều chỉnh nhưng chưa thực sự quyết liệt, hiện tượng tiêu cực trong y tế, giáo dục vẫn xuất hiện, gây nên những bức xúc trong đông đảo quần chúng nhân dân.
2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, phát triển kinh tế bền vững và lành mạnh, bảo đảm cơ sở vật chất cho sự phát triển con người toàn diện.
Thực tiễn các hình thái kinh tế – xã hội mà nhân loại trải qua đã chứng minh, kinh tế luôn là trụ cột, bảo đảm sự ổn định cho mọi chế độ xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế nói riêng và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói chung, con người luôn đóng vai trò là hạt nhân trong sự phát triển. Bởi lẽ, con người là trung tâm, là chủ thể của hoạt động sản xuất của cải vật chất. Tuy nhiên, không phải bất kỳ thời khắc nào của lịch sử, các chế độ xã hội đều có sự đối đãi công bằng đối với các chủ thể của quá trình sản xuất, vì lẽ đó, sự thay thế chế độ xã hội cũ, lạc hậu bởi sự tiến bộ, tốt đẹp của xã hội mới luôn là tất yếu.
Với tư cách là lý thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng con người, chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định áp bức, bóc lột, bất công, bất bình đẳng chắc chắn sẽ bị đào thải bởi sự công bằng, bình đẳng, tự do và hạnh phúc trong xã hội cộng sản chủ nghĩa. Song, xã hội cộng sản chủ nghĩa không thể xuất hiện nếu không làm thỏa mãn nhu cầu tối thiểu về “cái ăn, mặc, ở, đi lại và một vài thứ khác nữa…” cho con người, cao hơn nữa phải làm thỏa mãn mọi năng lực ở con người. Nói cách khác, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản sẽ xuất hiện khi con người có được những điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của chính mình.
Như vậy, phát triển kinh tế bền vững, lành mạnh là đòi hỏi tất yếu nhằm xây dựng một xã hội ổn định và tạo cơ sở cho sự phát triển toàn diện của con người. Phát triển kinh tế bền vững, lành mạnh có nghĩa là đạt được nhiều tiến bộ to lớn trong việc chuyển đổi phương thức sản xuất mà thước cho cho sự phát triển này thể hiện qua tổng lượng kinh tế, mức sống của người dân. Đây là những tiêu chí cơ bản, quan trọng bảo đảm cho sự hạnh phúc của Nhân dân, là cơ sở tạo tập điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh, quá trình phát triển kinh tế ổn định, lành mạnh phải được tiến hành song song, đồng thời với nâng cao trình độ, năng lực của Nhân dân. Trình độ phát triển của nhân dân vừa là yếu tố khởi nguồn, vừa là điểm kết thúc chu trình phát triển kinh tế với tư cách là sự phủ định của chế độ xã hội cũ hoặc một giai đoạn lịch sử nhất định. Bởi lẽ, Nhân dân luôn là chủ thể của quá trình sản xuất và tái sản xuất nhưng việc sản xuất ra người thụ hưởng phải là Nhân dân. Chỉ có như vậy, con người mới xóa bỏ mọi rào cản trong bản tính xã hội, khắc phục những “chuẩn mực hư ảo” trong bản tính tự nhiên.
Thứ hai, mở rộng dân chủ, bảo đảm về mặt thể chế chính trị cho sự phát triển con người toàn diện.
Mọi vấn đề trong xã hội đều bắt nguồn từ con người, vì con người là chủ thể của tất cả các lĩnh vực, trong đó bao hàm cả vấn đề chính trị. Đảng phái, nhà nước, giáo hội… suy đến cùng đều là sản phẩm của quá trình lao động sản xuất của con người. Tuy nhiên, từ chỗ là người làm chủ, con người lại trở thành nô lệ, bị trói buộc bởi chính những sản phẩm do mình tạo ra. Những mệnh lệnh được hiện thực hóa thành pháp luật, trong lịch sử của các nhà nước luôn là rào cản to lớn, kìm hãm con đường đến với tự do của loài người. Để “sự tự do của người này là điều kiện cho sự thực hiện tự do của người khác”, nhà nước phải trở thành phương tiện giúp con người đạt được sự tự do, nếu nhà nước trở thành mục đích, “thượng đế” hoặc “thần thánh” sẽ xuất hiện và tồn tại với tư cách là đồng minh tri kỷ của con người.
Trong chủ nghĩa xã hội, sự tồn tại của nhà nước là tất yếu khách quan, nó là sản phẩm của quá trình đấu tranh cho quyền làm chủ của nhân dân lao động. Vì vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa tồn tại chỉ với vai trò là phương tiện để mưu cầu hạnh phúc cho Nhân dân; là công cụ quyền lực đem lại lợi ích, đồng thời, thỏa mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Với lý do đó, nhà nước có nhiệm vụ đề ra các chủ trương, biện pháp tác động đến các mặt, các bộ phận khác nhau trong kiến trúc thượng tầng để tạo ra sự công bằng cho các thành viên trong cộng đồng. Công bằng xã hội trong môi trường chính trị của chủ nghĩa xã hội, biểu hiện qua việc bảo đảm “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, “không có ai bị bỏ lại phía sau”; ốm đau có thuốc, mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do, ai cũng có cơ hội được thụ hưởng thành quả về giáo dục, đào tạo, văn hóa, y tế, chăm sóc sức khỏe, vui chơi, giải trí. Đây là những điều kiện cơ bản để thỏa mãn năng lực nhận thức và hành động thực tiễn, năng lực thẩm mỹ; thỏa mãn nhu cầu phát triển thể lực, nâng cao sức khỏe… phát triển mọi mặt cho bản thân.
Bên cạnh đó, tạo môi trường và điều kiện cho người lao động có việc làm và thu nhập; điều tiết hợp lý thu nhập xã hội, khuyến khích người dân làm giàu chính đáng; khắc phục chênh lệch giàu nghèo giữa các cá nhân, khu vực, vùng miền… là những nhiệm vụ trọng tâm tiếp theo mà nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải thực hiện để tạo sự công bằng trong môi trường chính trị. Đặc biệt, trong mọi hoạt động, bất luận trong hoàn cảnh, tình huống nào, nhà nước phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết, lợi ích quốc gia dân tộc phải trở thành mục đích tối thượng của nhà nước xã hội chủ nghĩa; phải tôn trọng tinh thần đổi mới, sáng tạo của Nhân dân, biến nó trở thành một bộ phận hữu cơ của việc xây dựng nền chính trị dân chủ. Chỉ có trên cơ sở thực hiện những chức năng, nhiệm vụ cơ bản đó mới tạo nên sự công bằng, bình đẳng trong môi trường chính trị, con người sẽ chuyển từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”, nhà nước hoàn thành sứ mệnh lịch sử và sẽ sự tiêu vong, con người thực sự được giải phóng.
Thứ ba, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tạo điều kiện thỏa mãn năng lực, nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người.
Văn hóa là một yếu tố vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển con người toàn diện, bởi lẽ, nói đến văn hóa là nói đến con người, sự sáng tạo của con người và những giá trị hay lợi ích do con người tạo ra bằng lao động trong quá trình con người làm nên lịch sử của bản thân mình. Như vậy, văn hóa là yếu tố gắn liền với con người, sản phẩm của văn hóa thường được kết tinh dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể (tinh thần). Dù biểu hiện dưới hình thái nào đi nữa, cũng phải thừa nhận rằng văn hóa là lực lượng nòng cốt để tạo ra sức sáng tạo của con người, là điểm tựa cho con người phát huy năng lực để thỏa mãn nhu cầu (vật chất hoặc tinh thần) của bản thân họ. Do vậy, xây dựng nền văn hóa lành mạnh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, cần phải tập trung vào các vấn đề cơ bản như sau:
(1) Phải kiên định, vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đây là “cốt tủy” trong mọi sự sáng tạo. Điều này, sẽ giúp cho con người đi đúng hướng, xác định đúng phương pháp, phương tiện trong hoạt động lao động sản xuất, giúp họ nhìn thấu mối quan hệ giữa “tất yếu – tự do” trong sự nghiệp giải phóng con người.
(2) Trang bị thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho quần chúng nhân dân, đây là bệ phóng tinh thần vững chắc, giúp Nhân dân khơi dậy niềm tin, sự nhiệt huyết trong hành trình đến với “vương quốc tự do”.
(3) Cần phải có sự thẩm định yếu tố giá trị, lợi ích trong sự sáng tạo của quần chúng nhân dân. Bởi lẽ, nói đến văn hóa là nói đến sự sáng tạo của con người và giá trị, lợi ích trong hoạt động của con người. Tuy nhiên, không phải lúc nào, không phải bao giờ tất cả những gì con người sáng tạo ra đều được coi là có giá trị hoặc có lợi ích. Có thể trong thời điểm này được coi là có giá trị hoặc có lợi ích, nhưng ở thời điểm khác đôi khi không còn phù hợp lại trở thành rào cản trong sự phát triển toàn diện của con người, tư tưởng Nho, Phật, Đạo ở Việt Nam là một trong những minh chứng cho điều đó.
Thứ tư, giải quyết triệt để các vấn đề xã hội, tạo động lực cho sự phát triển con người toàn diện.
Mục đích cuối cùng của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người, tức làm cho con người được thỏa mãn khả năng và thỏa mãn nhu cầu. Tuy nhiên, sự thỏa mãn này ở mỗi con người là khác nhau, do đó, tạo nên sự phong phú, đa dạng trong đời sống xã hội, trong đó bao hàm cả sự tương đồng và khác biệt. Đây vừa là động lực, đồng thời cũng là rào cản nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này, xuất hiện sự “què quặt, phiến diện” ở con người là điều không thể tránh khỏi. Để giải quyết được vấn đề này, cần phải tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
(1) Nâng cao mức sống (thu nhập và thời gian thụ hưởng giá trị tinh thần) của nhân dân. Chú trọng thu hẹp khoảng cách thu nhập của người lao động, từng bước xóa bỏ sự chênh lệch giàu nghèo để mọi người đều bình đẳng, ngang bằng nhau về cơ hội cũng như điều kiện phát triển bản thân. Khơi gợi ý thức tự giác, chăm chỉ, siêng năng trong học tập để nâng cao trình độ lao động và khả năng thích ứng của bản thân “học tập suốt đời để dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh vì lợi ích chung”. Chính quá trình phát huy khả năng của mình, con người có thể từng bước phát triển toàn diện bản thân.
(2) Ưu tiên phát triển giáo dục, thúc đẩy năng lực mỗi cá nhân. Chủ nghĩa Mác – Lênin và các ngành khoa học nghiên cứu về con người, nhất là trong bối cảnh hiện nay đều khẳng định rằng, năng lực của con người là rất to lớn và phát triển đa diện, đầy đủ các yếu tố thiên bẩm, luôn tồn tại dưới dạng khả năng tiềm ẩn, có thể đạt được. Tuy nhiên, cách nhanh nhất để con người “chiếm lĩnh” – thấu hiểu được khả năng của bản thân mình là thông qua giáo dục. Giáo dục không chỉ nâng cao trình độ nhận thức về thuộc tính tự nhiên, mà điều quan trọng là giúp cho họ được khơi mở nhiều hơn bản tính xã hội, thông qua đó, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan tích cực, trở thành những con người có ý thức, có trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình và xã hội.
(3) Thay đổi điều kiện sống, làm việc cho người dân, trước hết thay đổi về không gian sinh hoạt của từng gia đình, cải thiện điều kiện nhà ở cho các gia đình có thu nhập thấp. Bên cạnh đó, phải áp dụng những chính sách việc làm tích cực, có lợi, giúp cho người dân được tự chủ kinh tế. Đây là nhân tố quyết định, khơi gợi sức mạnh nội sinh của mỗi cá nhân, bởi lẽ, khi người dân được tự chủ kinh tế, họ sẽ tự tay mình tháo gỡ được các “điểm nghẽn” trong đời sống, giúp họ có điều kiện cơ bản thuận lợi nhất tiến tới tự do.
Chú thích:
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 47, 47.
Tài liệu tham khảo:
1. Hoàng Anh (2022). Xây dựng con người Việt Nam theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Lê Hữu Tầng (2014). Một số vấn đề lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị quốc gia.
4. Nhị Lê (2021). Chủ nghĩa xã hội Việt Nam logic đổi mới và phát triển. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Nguyễn Thu Hường (2023). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển con người toàn diện trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Phạm Mậu Tuyển (2016). Con người mới trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
7. Vương Bích Thủy (2004). Tất yếu và tự do một số vấn đề lý luận và thực tiễn. H. NXB Khoa học xã hội.