Thiếu tá Vũ Tuấn Mạnh
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Tôn giáo ở Việt Nam đã thực sự là nguồn lực xã hội quan trọng góp phần phát triển đất nước. Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển đất nước”1. Bàn về việc phát huy “nguồn lực tôn giáo” là đề cập đến vai trò xã hội của tôn giáo, những đóng góp của tôn giáo cho sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, để các nguồn lực tôn giáo được khai thông một cách hiệu quả, cần phải nhận thức đúng về vai trò nguồn lực tôn giáo, từ đó, có những giải pháp phát huy nguồn lực tôn giáo. Bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Nguồn lực tôn giáo; phát huy nguồn lực tôn giáo; phát triển đất nước.
1. Đặt vấn đề
Nguồn lực tôn giáo cơ bản và thường được thể hiện ở hai phương diện: (1) Nguồn lực tinh thần của tôn giáo là giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo, được thể hiện trong hệ thống triết lý, giáo lý, những điều răn, giới cấm nhằm điều chỉnh ý thức, hành vi của tín đồ và được tín đồ tin theo một cách tự nguyện. Giá trị đó, ngoài việc bảo vệ niềm tin tôn giáo, còn đề cập đến chuẩn mực đạo đức chung xã hội. (2) Nguồn lực vật chất, được thể hiện ở nguồn nhân lực và nguồn vốn xã hội. Tăng trưởng kinh tế ổn định hằng năm của đất nước có sự đóng góp của tín đồ các tôn giáo, đồng thời, nguồn nhân lực, nguồn vốn của tôn giáo khi kết hợp với niềm tin tôn giáo đã thôi thúc các tổ chức và cá nhân tôn giáo nâng cao trách nhiệm trong thực hiện các hoạt động xã hội một cách hiệu quả, đã và đang đóng góp vào phát triển bền vững đất nước.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định tôn giáo còn tồn tại lâu dài, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, từ đó, công tác tôn giáo phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người nhằm mục tiêu đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân xây dựng đất nước Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển. Đồng thời, nhấn mạnh: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo”2. Nhìn nhận và phát huy những giá trị tích cực về đạo đức và văn hóa của tôn giáo, những đóng góp của tôn giáo đối với xã hội – đó chính là phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển bền vững đất nước.
2. Thực trạng phát huy nguồn lực tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua
Trên thực tế, Việt Nam đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước3. Đồng bào các tôn giáo là lực lượng sản xuất đông đảo, tham gia vào tất cả các thành phần kinh tế, đã và đang trực tiếp tạo ra của cải vật chất, không chỉ phục vụ đời sống gia đình mà còn cùng với các thành phần xã hội khác đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Kinh tế phát triển, đồng bào có đạo có điều kiện đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và nhiều công trình công cộng khác. Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo cũng đóng góp nguồn lực quan trọng, đồng hành cùng các cấp chính quyền trong công tác an sinh xã hội, giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo.
Sau 15 năm ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo, ngày 10/01/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về công tác tôn giáo trong tình hình mới. Nội dung của Chỉ thị không chỉ tiếp tục khẳng định giá trị các quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo trong Nghị quyết số 25-NQ/TW mà còn nâng lên một bước nhận thức về giá trị của tôn giáo là: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước”4.
Thực tế, những năm qua, nguồn lực tôn giáo đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần vào công cuộc phát triển bền vững đất nước. Thực hiện chủ trương xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, giáo dục, các bộ, ngành chức năng đã vận động các tổ chức tôn giáo phát huy nguồn lực góp phần thực hiện tốt công tác an sinh xã hội. Theo đó, nguồn lực của tôn giáo được huy động tăng lên theo các năm: năm 2009, các tôn giáo ở Việt Nam đã thực hiện các hoạt động an sinh xã hội với số tiền là 354 tỷ đồng; năm 2010 lên 1149,6 tỷ đồng; năm 2011 là 1400 tỷ đồng. Năm 2020, các tổ chức tôn giáo ủng hộ công tác phòng, chống đại dịch Covid-19 với số tiền trên 22 tỷ đồng và nhiều hiện vật5.
Trong hoạt động giáo dục tập trung vào 3 loại hình; lớp học tình thương, trường mầm non và đào tạo nghề. Theo thống kê, cả nước có hơn 2.300 cơ sở giáo dục, đào tạo do các tổ chức tôn giáo thành lập (300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương, 56 cơ sở dạy nghề)6. Hoạt động từ thiện nhân đạo, với nguồn nhân lực, thu hút tốt nguồn vốn, các tôn giáo thúc đẩy và hoạt động rất hiệu quả. Nhìn nhận vấn đề đó, trong thời gian qua, các ngành, các cấp đã vận động, động viên kêu gọi tổ chức tôn giáo tham gia, đóng góp hiệu quả trong việc chăm lo cho người có hoàn cảnh khó khăn. Hiện nay, có 113 cơ sở đã thực hiện thủ tục thành lập theo quy định của pháp luật; các cơ sở được phân bố ở các vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, duyên hải miền Trung, Bắc Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, còn có trên 50 cơ sở trợ giúp xã hội của các tổ chức tôn giáo7.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hiện đại hóa các tôn giáo đều có khuynh hướng trở thành “tôn giáo xã hội” thích ứng xã hội ngày càng cao. Việt Nam đã nhìn nhận tôn giáo là một thực thể xã hội, tồn tại lâu dài trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, thì hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế trong công tác quản lý về tôn giáo. Trước hết, từ phương diện nhận thức về nguồn lực tôn giáo của cán bộ, đảng viên và xã hội, chưa đánh giá đầy đủ về nguồn lực, khả năng đóng góp của tôn giáo. Hoạt động xây dựng chính sách pháp luật về nguồn lực tôn giáo còn hạn chế dẫn tới những chính sách còn chưa đáp ứng tình hình thực tế. Cơ chế quan tâm, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo ở các địa phương còn hạn chế. Cơ sở pháp lý để đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực tôn giáo còn thiếu cụ thể và hiệu lực không cao. Cần phải thể chế hóa trong các luật chuyên ngành để tạo cho tôn giáo một địa vị pháp lý trong các hoạt động xã hội thích hợp, như: y tế, giáo dục, bảo trợ xã hội theo khả năng của từng tôn giáo. Đây chính là cơ sở, điều kiện để phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước.
Trước tác động cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng giữa các nước trên thế giới…, các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng để câu kết với nhau trong vấn đề dân tộc, tôn giáo để tìm mọi cách chia rẽ tôn giáo, đặc biệt giữa người theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa đồng bào tôn giáo với Đảng, Nhà nước; chúng dùng nhiều thủ đoạn để gây mất ổn định chính trị – xã hội, với ý đồ phủ nhận những kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, trực tiếp phá hoại đoàn kết các dân tộc; nhất là thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội… Đây chính là lực cản chi phối, tác động đến việc phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước hiện nay.
3. Một số đề xuất nhằm phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển đất nước hiện nay
Thứ nhất, nhìn nhận khách quan về vai trò nguồn lực tôn giáo.
Tôn giáo là một thực thể xã hội tồn tại khách quan, nguồn lực tôn giáo biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau, trong đó có nhiều giá trị tích cực nhưng cũng có những yếu tố tiêu cực. Do vậy, cần có những đánh giá khách quan về hoạt động liên quan đến nguồn lực tôn giáo thì mới có thể có được nhận thức đúng về nguồn lực. Khi đã nhìn nhận đúng và đặt để đúng các hoạt động của nguồn lực tôn giáo, thì trong tham mưu và thực thi mới hiệu quả và khả thi. Khi nhận thức đúng nguồn lực tôn giáo sẽ chủ động trong việc đưa tôn giáo vào tham gia các hoạt động xã hội. Tôn giáo có điều kiện và môi trường để phát huy vai trò, thế mạnh của mình, đóng góp cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước. Để phát huy nguồn lực của tôn giáo trong xây dựng đất nước cần phát triển cách tiếp cận mới về tôn giáo theo hướng:
Hướng thứ nhất, tôn giáo là một thực thể xã hội tồn tại khách quan và mang trong mình những giá trị tích cực. Số lượng tín đồ tôn giáo là nguồn nhân lực của đất nước, không chỉ là người trực tiếp làm ra của cải (nguồn vốn) để phát triển đất nước. Nguồn nhân lực đó có niềm tin tôn giáo sẽ làm tăng tính hiệp thông giữa những người cùng đức tin, tạo nên sức mạnh, tính cố kết cộng đồng cao, là những hạt nhân quan trọng làm nên đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc và là lực lượng quần chúng góp phần ổn định, phát triển đất nước, đó là một thực tế không thể phủ nhận.
Hướng thứ hai, phát huy giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo vào xây dựng đạo đức, văn hóa dân tộc. Việt Nam luôn tự hào là đất nước có nền văn hóa độc đáo, với những giá trị vật thể và phi vật thể được thế giới công nhận, bên cạnh đó, sự đa dạng của văn hóa các dân tộc thiểu số đã góp phần làm nên bề dày và sự đa dạng của văn hóa Việt Nam. Trên thực tế, bản thân tôn giáo đã là văn hóa, có những giá trị phù hợp với văn hóa dân tộc Việt Nam; tôn giáo còn là môi trường tiếp biến, giao lưu văn hóa; là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa dân tộc. “Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”8. Như vậy, giá trị đạo đức, văn hóa tôn giáo sẽ góp phần giữ gìn và phát huy giá trị đạo đức, văn hóa Việt Nam. Để tôn giáo tham gia vào giải quyết vấn đề đạo đức xã hội, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc rất cần tạo cho tôn giáo một cơ chế, chính sách rõ ràng, coi tôn giáo là một thành tố văn hóa. Nói cách khác, chủ trương đã có, cần phải thể chế để tạo hành lang pháp lý cho tôn giáo phát huy giá trị đó trong đời sống xã hội.
Thứ hai, nâng cao nhận thức cho các chủ thể phát huy nguồn lực tôn giáo.
Nguồn lực tôn giáo biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau (dạng vật chất và tinh thần), trong đó có nhiều giá trị tích cực, nhưng cũng có những yếu tố tiêu cực. Do vậy, cần nhìn nhận và đánh giá khách quan về hoạt động liên quan đến nguồn lực tôn giáo thì mới có thể nhận thức đúng về nguồn lực tôn giáo. Khi đã nhận thức và đánh giá đúng về vai trò của nguồn lực tôn giáo, trong tham mưu và thực hiện mới hiệu quả và khả thi. Khi nhận thức đúng về vai trò nguồn lực tôn giáo sẽ chủ động trong việc đưa tôn giáo vào tham gia thực hiện các vấn đề xã hội ở lĩnh vực nào, mô hình nào và đến đâu sẽ rất quan trọng. Điều đó không chỉ thúc đẩy, khai thông, phát huy vai trò nguồn lực tôn giáo, tạo sự đồng thuận xã hội mà còn hạn chế những biểu hiện tiêu cực, lợi dụng tôn giáo vào các hoạt động vì mục đích khác.
Chủ thể phát huy nguồn lực tôn giáo, đó chính là chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội, chủ thể quan trọng, nhất là bộ máy làm công tác tôn giáo của hệ thống chính trị các cấp, bao gồm: các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội, cùng với đó là các tổ chức tôn giáo, trọng tâm là đội ngũ chức sắc, chức việc, tín đồ tôn giáo và Nhân dân. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các chủ thể về phát huy nguồn lực tôn giáo hiện nay gồm nhiều nội dung, cụ thể như sau:
Đối với Đảng, Nhà nước: Đảng tiếp tục chăm lo xây dựng đường lối, chủ trương đúng đắn về việc phát huy nguồn lực tôn giáo. Chính phủ, Quốc hội, các bộ, ngành liên quan đến việc phát huy nguồn lực tôn giáo cần chỉ đạo việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển bền vững đất nước; đặc biệt, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng. Thường xuyên chỉ đạo quá trình thể chế hóa chủ trương, đường lối phát huy nguồn lực tôn giáo phù hợp với mỗi cấp, mỗi địa bàn và mỗi tôn giáo. Nâng cao vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng, đảng viên trong cơ quan nhà nước và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động các tổ chức và đảng viên cũng như kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước.
Đối với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Cấp ủy, chính quyền các địa phương cần quan tâm thích đáng cho việc xây dựng nghị quyết, kế hoạch phát huy nguồn lực tôn giáo phù hợp với đặc thù mọi mặt của từng địa phương. Mặt trận Tổ quốc cần chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch phát huy nguồn lực tôn giáo với các mục tiêu, nội dung cụ thể; Mặt trận Tổ quốc phát huy vai trò của người đứng đầu các tổ chức tôn giáo và chức sắc, chức việc, nhà tu hành có tâm huyết, tiêu biểu, để họ vận động, thu hút tín đồ và nhân dân tích cực tham gia phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển bền vững đất nước.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tôn giáo, tạo cơ sở pháp lý để tôn giáo phát huy nguồn lực trong phát triển đất nước.
Trong quá trình thực hiện Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cần tính đến việc sửa đổi, bổ sung một số luật chuyên ngành có liên quan đến tôn giáo, nhất là những nội dung còn vướng, còn thiếu hoặc bất cập giữa các luật nhằm bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong quan điểm, chủ trương, như: quy định cụ thểviệc tổ chức tôn giáo được thực hiện chủ trương xã hội hóa về y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo với tư cách là chủ đầu tư và quản lý theo quy định của pháp luật, nhất là trong giai đoạn hiện nay Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định pháp nhân đối với các tổ chức tôn giáo và tổ chức tôn giáo trực thuộc.
Trong các cơ sở giáo dục, y tế do tôn giáo quản lý điều hành thực hiện triệt để cơ chế “phân ly” theo đúng quy định của luật chuyên ngành (khi sửa đổi bổ sung), không đưa các hoạt động tôn giáo vào sinh hoạt và giảng dạy; không đặt các biểu tượng tôn giáo. Nhà nước hỗ trợ cơ chế, chính sách, các tôn giáo tự tạo nguồn, chịu thuế và chịu sự giám sát, quản lý của nhà nước.
Riêng đối với các cơ sở bảo trợ xã hội, là nơi nuôi dưỡng những người đã mất khả năng lao động và mất khả năng tự chăm sóc bản thân thì nhà nước cần tính đến không chỉ cơ chế, chính sách mà còn hỗ trợ về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí để các tổ chức tôn giáo thuận lợi trong điều hành và quản lý, cùng với nhà nước chăm lo cho những người yếu thế, góp phần cùng với các tổ chức khác để giảm tải gánh nặng xã hội.
Việc đưa tôn giáo vào tham gia cung cấp dịch vụ công trong lĩnh vực y tế, giáo dục với sự giám sát, quản lý của Nhà nước sẽ góp phần làm giảm tải số lượng học sinh ở các trường mà hiện nay đã quá mức cho phép hay giảm tải các bệnh nhân trong các bệnh viện. Việt Nam có chủ trương xã hội hóa y tế, giáo dục, do đó, cũng có thể coi việc các tôn giáo tham gia sâu vào lĩnh vực này là việc tôn giáo đang thực hiện tốt chủ trương của Đảng, Nhà nước, không có sự phân biệt, không có khoảng trống. Cũng nên cho phép tôn giáo tham gia cung ứng dịch vụ công để tạo ra sự cạnh tranh về chất lượng phục vụ giữa các tổ chức cung ứng khác nhau, thúc đẩy sự công khai, minh bạch trong hoạt động y tế, giáo dục và người dân sẽ có lợi trong việc lựa chọn chất lượng các chủ thể tham gia cung ứng các loại dịch vụ này. Luật pháp càng đồng bộ, rõ ràng thì việc thực hiện chính sách, pháp luật mới thống nhất và khả thi. Bảo đảm tính minh bạch, bình đẳng giữa trách nhiệm, quyền lợi của các tổ chức tôn giáo; giữa tổ chức tôn giáo và các tổ chức xã hội khác, thúc đẩy các tổ chức tôn giáo đóng góp nguồn lực vào phát triển đất nước.
Thứ tư, thường xuyên cảnh giác đấu tranh với các quan điểm, hành vi lợi dụng tôn giáo chống phá của các thế lực thù địch.
Để đấu tranh với các quan điểm sai trái; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn, hành vi của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo hiện nay cần làm tốt một số nội dung, biện pháp chủ yếu sau:
(1) Tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội vạch trần âm mưu, thủ đoạn, hành vi lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá sự nghiệp xây dựng phát triển đất nước.
(2) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, củng cố bộ máy làm công tác tôn giáo đủ mạnh, có tính ổn định cao.
(3) Bảo đảm bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo phải có năng lực, trình độ tương xứng để có thể quản lý, đối thoại với cá nhân, tổ chức tôn giáo. Đồng thời, cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố cơ sở chính trị tại vùng có đông tín đồ tôn giáo, nhất là những nơi có các chức sắc hoạt động cực đoan.
(4) Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, thu hút, tập hợp chức sắc, tín đồ tôn giáo tham gia sinh hoạt trong các đoàn thể đó.
(5) Kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các lực lượng chức năng triển khai các phương tiện, biện pháp, nhất là đẩy mạnh công tác vận động quần chúng tín đồ, tranh thủ chức sắc, cũng như vận dụng có hiệu quả biện pháp ngoại giao để kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam của các thế lực thù địch.
(6) Kịp thời định hướng dư luận trước các vấn đề “nổi cộm”, nhất là các vấn đề liên quan đến tôn giáo, thu hút sự quan tâm sâu sắc của chức sắc, tín đồ tôn giáo. Đẩy mạnh đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, hòng chia rẽ đoàn kết các dân tộc. Chú trọng thu thập, củng cố chứng cứ về các sai phạm của số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo để xây dựng kế hoạch xử lý phù hợp.
(7) Nêu gương điển hình tiên tiến đối với các cá nhân, tổ chức tôn giáo thực hiện tốt phương hướng hoạt động “sống tốt đời, đẹp đạo”; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước ở các địa phương.
4. Kết luận:
Vấn đề tôn giáo và nguồn lực tôn giáo đã được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, khoa học và phù hợp với thực tiễn đời sống tôn giáo ở Việt Nam, qua đó đã phát huy các nguồn lực tôn giáo trong xây dựng đất nước. Để phát huy có hiệu quả các nguồn lực của các tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta phải sử dụng tổng hợp các phương thức tác động phù hợp, nhìn nhận khách quan những tác động của tôn giáo đối với xã hội; nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các chủ thể; có cơ chế, chính sách đúng đắn, kịp thời, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tôn giáo sử dụng các nguồn lực tham gia vào các hoạt động phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước. Cùng với đó, thường xuyên cảnh giác đấu tranh với các quan điểm, hành vi lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng nước ta. Có như vậy, mới có thể tạo lập được các mối quan hệ hài hòa và đồng thuận xã hội, là động lực mạnh mẽ cho việc tập hợp, phát huy sức mạnh, nguồn lực của Nhân dân vào công cuộc phát triển đất nước.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 171.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB Sự thật, tr. 78.
3, 5, 7. Vũ Chiến Thắng (2020). Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát huy nguồn lực tôn giáo trong quá trình xây dựng và phát triển bền vững đất nước hiện nay. Đề tài cấp bộ, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội, tr. 31, 62, 76.
4. Bộ Chính trị (2018). Chỉ thị 18-CT/TW ngày 12/03/2003 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới.
6. Vũ Chiến Thắng (2019). Tôn giáo tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạp chí Công tác tôn giáo, số 8/2019.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 245.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Nội vụ (2020). Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28/12/2020 về việc danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo.
2. Nguyễn Khắc Đức (chủ biên, 2022). Phát huy nguồn lực tôn giáo trong phát triển ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Lý luận chính trị.
3. Phát huy nguồn lực tôn giáo để phát triển đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/02/09/phat-huy-nguon-luc-ton-giao-de-phat-trien-dat-nuoc-theo-tinh-than-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-cua-dang/
4. Quan điểm của Đảng về công tác tôn giáo trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/03/13/quan-diem-cua-dang-ve-cong-tac-ton-giao-va-quan-ly-hoat-dong-ton-giao-trong-xay-dung-va-bao-ve-to-quoc/