ThS. Trung tá Nguyễn Văn Hoán
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong giai đoạn từ 2015 – 2024, Quảng Ninh đã có bước chuyển mình ngoạn mục, trở thành một trong những “điểm đến” hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thành công này là kết quả của sự lãnh đạo sâu sát, quyết liệt, sáng tạo và nhất quán của Đảng bộ tỉnh trong việc kiến tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, cạnh tranh, lấy doanh nghiệp và người dân làm trung tâm. Bài viết tập trung phân tích một cách hệ thống những yếu tố chủ yếu đã tác động đến quá trình hình thành, điều chỉnh và thực thi chủ trương của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh trên địa bàn tỉnh.
Từ khóa: Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, chủ trương, lãnh đạo, môi trường đầu tư, yếu tố tác động.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu, xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi là yếu tố then chốt cho tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh của mỗi địa phương. Môi trường đầu tư bao gồm: thể chế, pháp luật, hạ tầng, nhân lực và đặc biệt là hiệu quả quản trị của chính quyền. Nhận thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước luôn coi cải thiện MTĐT là nhiệm vụ trọng tâm, đột phá. Hưởng ứng chủ trương đó, Quảng Ninh đã vươn lên thành điển hình thành công vượt trội, liên tục dẫn đầu cả nước về Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và các chỉ số quan trọng khác như PAR Index, SIPAS, PAPI. Thành tựu này có được nhờ thu hút đầu tư hiệu quả, đặc biệt vào hạ tầng và công nghiệp chế biến, tạo động lực phát triển mạnh mẽ. Đóng góp quyết định vào thành công này chính là vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, với những chủ trương, quyết sách đúng đắn, mang tầm nhìn chiến lược và tinh thần đổi mới, đột phá. Tuy nhiên, quá trình hình thành các chủ trương đó chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Việc phân tích khoa học các yếu tố không chỉ để lý giải thành công mà còn rút ra bài học kinh nghiệm cho Quảng Ninh và các địa phương khác.
2. Bối cảnh và thực trạng công tác lãnh đạo xây dựng môi trường đầu tư của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh có vị trí địa chiến lược quan trọng ở vùng Đông Bắc, có những đặc điểm riêng biệt, tạo nên cả thuận lợi và thách thức đáng kể cho quá trình phát triển. Với lợi thế tiếp giáp Trung Quốc cả trên bộ và trên biển, sở hữu đường bờ biển dài, cửa ngõ giao thương quốc tế và đặc biệt là Di sản – Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Quảng Ninh có tiềm năng to lớn để phát triển đa dạng các ngành kinh tế, nhất là du lịch, dịch vụ và kinh tế biển. Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú, đặc biệt là trữ lượng than đá là nền tảng vững chắc cho kinh tế tỉnh nhà trong suốt một thời gian dài.
Tuy nhiên, bức tranh phát triển của Quảng Ninh không chỉ toàn màu sáng. Tỉnh phải đối mặt với nhiều thách thức cố hữu và mới nảy sinh. Nổi bật là sự phụ thuộc lớn vào công nghiệp khai khoáng (đặc biệt là than), một mô hình thiếu bền vững, tiềm ẩn rủi ro môi trường và tác động tiêu cực đến các ngành khác như du lịch. Bên cạnh đó, hệ thống hạ tầng giao thông, dù được đầu tư, trong thời gian dài vẫn còn hạn chế, thiếu kết nối đồng bộ, trở thành “điểm nghẽn” cản trở thu hút đầu tư chất lượng cao và phát huy lợi thế khác. Chất lượng nguồn nhân lực, dù cải thiện, vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cách mạng công nghiệp 4.0. Thêm vào đó, áp lực cạnh tranh thu hút đầu tư gay gắt từ các địa phương lân cận có lợi thế hơn về vị trí, hạ tầng, nhân lực, đòi hỏi Quảng Ninh phải không ngừng đổi mới để nâng cao sức hấp dẫn.
Nhận thức sâu sắc và toàn diện về thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức, đặc biệt là yêu cầu cấp bách chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng từ “nâu” sang “xanh” (dựa trên dịch vụ, du lịch chất lượng cao, công nghiệp chế biến chế tạo công nghệ cao, kinh tế biển, nông nghiệp công nghệ cao và đổi mới sáng tạo), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện quyết tâm chính trị cao, tầm nhìn chiến lược và tinh thần đổi mới, đột phá. Việc cải thiện căn bản môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh (PCI) được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt và là khâu đột phá hàng đầu, cốt yếu để giải phóng nguồn lực, thu hút đầu tư chất lượng, tạo động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Hội đồng nhân dân tỉnh xác định: “Nâng cao chất lượng cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh gắn với chuyển đổi số toàn diện tỉnh Quảng Ninh”1.
Tinh thần đó đã được cụ thể hóa bằng hàng loạt chủ trương, quyết sách mang tính chiến lược và những hành động quyết liệt, sáng tạo, để lại dấu ấn sâu sắc trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng môi trường đầu tư. Nổi bật trước hết là việc xác lập và kiên trì theo đuổi quan điểm nhất quán: Lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm của sự phục vụ.
Để hiện thực hóa quan điểm lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, Quảng Ninh đã thực hiện những bước đột phá về thể chế và cải cách hành chính. Tỉnh tiên phong xây dựng Trung tâm Phục vụ hành chính công hiện đại, tập trung ở cấp tỉnh và 100% cấp huyện, giúp giảm thời gian, chi phí cho người dân, doanh nghiệp. Quảng Ninh đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai chính quyền điện tử, đô thị thông minh; quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục; tăng cường công khai, minh bạch quy hoạch, chính sách. Đặc biệt, sáng kiến Chỉ số DDCI hằng năm không chỉ là kênh phản hồi khách quan từ doanh nghiệp về chất lượng điều hành mà còn là công cụ quản trị hiệu quả, tạo áp lực và động lực cải cách mạnh mẽ từ bên trong bộ máy.
Song song với cải cách thể chế, Quảng Ninh đã tạo cuộc cách mạng trong đầu tư hạ tầng chiến lược, nhất là giao thông, bằng việc tiên phong áp dụng hiệu quả mô hình đối tác công – tư (PPP). Xác định giao thông là “điểm nghẽn” lớn nhất, tỉnh mạnh dạn đề xuất và được chấp thuận cơ chế đặc thù, huy động nguồn lực tư nhân đầu tư các dự án quy mô lớn, kết nối cao. Kết quả là hàng loạt công trình trọng điểm, như: sân bay Vân Đồn (tư nhân), chuỗi cao tốc Hạ Long – Hải Phòng, Hạ Long – Vân Đồn, Vân Đồn – Móng Cái, cảng tàu khách quốc tế Hạ Long hoàn thành kỷ lục. Những công trình này đã thay đổi ngoạn mục hạ tầng, rút ngắn di chuyển, phá thế “ngõ cụt”, tạo kết nối chiến lược, mở không gian phát triển mới, nâng cao vị thế và sức hấp dẫn đầu tư của tỉnh.
Song song với hoàn thiện hạ tầng cứng, Quảng Ninh đổi mới toàn diện công tác xúc tiến và hỗ trợ đầu tư. Nghị quyết số 124/NQ-HĐND ngày 04/11/2022 của HĐND tỉnh,xác định: “Tổ chức triển khai hiệu quả Chương trình xúc tiến đầu tư hằng năm,… Tăng cường hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế”2. Tỉnh chuyển từ bị động, quảng bá chung chung sang chủ động, tiếp cận có trọng tâm, hướng tới nhà đầu tư chiến lược và dự án chất lượng cao, thông qua các hội nghị xúc tiến chuyên nghiệp. Quan trọng hơn, tỉnh thiết lập và duy trì hiệu quả các kênh đối thoại thực chất, thường xuyên với doanh nghiệp (như mô hình “Cafe doanh nhân”, gặp mặt định kỳ) để lắng nghe, kịp thời tháo gỡ vướng mắc. Việc thành lập Ban Xúc tiến và Hỗ trợ đầu tư (IPA) chuyên nghiệp, hoạt động như đầu mối một cửa hỗ trợ toàn diện nhà đầu tư, thể hiện rõ cam kết mạnh mẽ của tỉnh trong việc đồng hành, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp.
Đồng thời, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh cũng đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp. Báo cáo Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 09/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh,chỉ rõ: “tỉnh Quảng Ninh luôn quan tâm đến việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đã đưa ra nhiều chính sách, nội dung mới nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực nói chung và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nói riêng”3.
Nhiều chính sách đầu tư cho giáo dục – đào tạo, dạy nghề, thu hút nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong các lĩnh vực du lịch, dịch vụ, công nghệ thông tin, quản trị… đã được ban hành và triển khai. Tỉnh cũng khuyến khích, tạo điều kiện cho việc phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp như: logistics, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn pháp lý, công nghệ thông tin…, góp phần hoàn thiện hệ sinh thái kinh doanh, tạo môi trường ngày càng thuận lợi và đồng bộ hơn cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động và phát triển lâu dài tại Quảng Ninh.
3. Những yếu tố cơ bản tác động đến chủ trương xây dựng môi trường đầu tư của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh
Một là, bối cảnh quốc gia và quốc tế.
Chủ trương xây dựng môi trường đầu tư của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh chịu ảnh hưởng sâu sắc từ bối cảnh quốc gia và quốc tế. Đường lối đổi mới, hội nhập nhất quán của Đảng và Nhà nước tạo khung khổ pháp lý, định hướng chính trị vĩ mô thuận lợi. Các Nghị quyết Đại hội Đảng và các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, Bộ Chính trị về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế tư nhân, cải cách hành chính… là kim chỉ nam, nền tảng vững chắc để Quảng Ninh vận dụng sáng tạo, cụ thể hóa thành chính sách phù hợp thực tiễn địa phương. Bên cạnh đó, sự chỉ đạo quyết liệt, liên tục của Chính phủ qua các Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đã tạo “cú hích”, thúc đẩy Quảng Ninh hành động mạnh mẽ, hiệu quả hơn. Các mục tiêu cụ thể trong các nghị quyết này trở thành thước đo, động lực để tỉnh phấn đấu và tự hoàn thiện.
Trong bối cảnh đó, xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, được đánh dấu bằng việc tham gia và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)… đã đặt ra những yêu cầu ngày càng cao hơn về cải cách thể chế, minh bạch hóa chính sách, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường… Điều này đòi hỏi các địa phương, muốn thu hút được dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chất lượng cao và giúp doanh nghiệp nội địa tận dụng hiệu quả các cơ hội thị trường từ hội nhập, buộc phải nỗ lực cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh, đưa môi trường đầu tư kinh doanh của mình tiệm cận gần hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế tốt nhất. Áp lực cạnh tranh không chỉ đến từ các quốc gia trong khu vực trong cuộc đua thu hút FDI mà còn đến từ chính các tỉnh, thành phố khác trong nước, tạo thành một động lực cạnh tranh quan trọng, thúc đẩy Quảng Ninh không thể tự mãn mà phải liên tục tìm tòi, đổi mới.
Quan trọng không kém, tác động từ việc công bố công khai, rộng rãi các bộ chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh và hiệu quả điều hành cấp tỉnh đã ngày càng trở nên rõ nét. Việc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) kiên trì công bố Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) hằng năm, cùng với sự ra đời và ngày càng có uy tín của các bộ chỉ số khác, như: Chỉ số Cải cách hành chính (PAR Index), Chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Chỉ số Hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS)… đã tạo ra một “cuộc đua” lành mạnh, công khai, minh bạch giữa các địa phương. Quảng Ninh đã sớm nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của các chỉ số này, không chỉ xem chúng là những bảng xếp hạng thành tích đơn thuần mà còn coi đó là những “tấm gương phản chiếu”, những thước đo khách quan, khoa học để đánh giá hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của mình; là công cụ hữu hiệu để nhận diện những điểm mạnh cần phát huy và những yếu kém, tồn tại cần tập trung khắc phục; đồng thời, là cơ sở thực tiễn quan trọng để xây dựng và điều chỉnh các chủ trương, giải pháp cải cách một cách trúng đích và hiệu quả hơn.
Hai là, đặc điểm tình hình kinh tế – xã hội, tiềm năng, lợi thế và thách thức nội tại của tỉnh.
Việc hoạch định chủ trương của Đảng bộ Quảng Ninh gắn liền với phân tích sâu sắc bối cảnh địa phương. Nhận thức bước ngoặt là sự thiếu bền vững của mô hình tăng trưởng từ “nâu” dựa vào khai khoáng (than), với rủi ro cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường và giá trị gia tăng thấp. Điều này tạo yêu cầu cấp bách phải chuyển đổi sang mô hình “xanh” bền vững hơn, dựa vào dịch vụ chất lượng cao (du lịch), công nghiệp công nghệ cao, kinh tế biển. Để hiện thực hóa khát vọng này, việc kiến tạo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn, minh bạch, hiệu quả được xác định là điều kiện tiên quyết, là “chìa khóa vàng” thu hút các nhà đầu tư chiến lược phù hợp với định hướng phát triển mới của tỉnh.
Bên cạnh nhận diện thách thức, Quảng Ninh tập trung khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế so sánh nổi trội. Vị trí địa lý chiến lược (cửa ngõ giao thương, gần Trung Quốc/ASEAN), tài nguyên du lịch độc đáo (Vịnh Hạ Long), bờ biển dài (cảng nước sâu, kinh tế biển) và quỹ đất dồi dào là những lợi thế quan trọng. Do đó, chủ trương cải thiện môi trường đầu tư luôn gắn với tối ưu hóa các tiềm năng này. Điều này thể hiện qua việc ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù, quy hoạch và phát triển các khu kinh tế động lực (Quảng Yên, Vân Đồn, Móng Cái), khu công nghiệp hiện đại, tạo “thỏi nam châm” thu hút đầu tư có chọn lọc vào các lĩnh vực tỉnh có lợi thế, phù hợp định hướng phát triển bền vững.
Đồng thời, Đảng bộ Quảng Ninh xác định rõ và tập trung giải quyết các “điểm nghẽn” cản trở phát triển. Hạ tầng giao thông yếu kém, thiếu kết nối từng là rào cản lớn nhất. Nhận diện rõ “nút thắt” này, tỉnh thể hiện quyết tâm chính trị cao, đưa ra chủ trương đột phá huy động nguồn lực xã hội qua mô hình PPP để đầu tư nhanh chóng, đồng bộ hạ tầng giao thông chiến lược (cao tốc, sân bay, cảng biển), tạo giải pháp căn cơ, mang tính cách mạng. Tương tự, những hạn chế về chất lượng nhân lực, thủ tục hành chính rườm rà cũng được xác định là vấn đề cấp bách, cần giải quyết bằng các chủ trương quyết liệt về cải cách hành chính, đầu tư giáo dục đào tạo, thu hút nhân tài, tạo môi trường tổng thể thuận lợi hơn.
Ba là, năng lực lãnh đạo, tầm nhìn chiến lược và ý chí chính trị của đảng bộ tỉnh.
Qua các nhiệm kỳ, đội ngũ lãnh đạo chủ chốt, đặc biệt là Ban Chấp hành và Ban Thường vụ Tỉnh ủy, đã nhất quán thể hiện tầm nhìn xa, tư duy đổi mới, sáng tạo, chủ động đối mặt thách thức với tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm”. Điều này minh chứng qua việc xác định đúng các khâu đột phá (thể chế, hạ tầng, nhân lực) và mạnh dạn thực hiện thành công các mô hình mới, vượt trội như PPP đầu tư hạ tầng lớn, Trung tâm Hành chính công hiện đại, và sáng kiến DDCI.
Để biến tầm nhìn và tư duy đột phá thành hiện thực, Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện quyết tâm chính trị rất cao, xác định đây là “nhiệm vụ sống còn” cho sự phát triển bền vững. Quyết tâm này thể hiện qua việc thường xuyên ban hành nghị quyết chuyên đề, đưa nhiệm vụ cải thiện môi trường đầu tư vào chương trình công tác trọng tâm, cùng cơ chế lãnh đạo trực tiếp, kiểm tra, giám sát quyết liệt. Báo cáo Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 09/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, chỉ rõ: “Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh đã kiểm tra, giám sát trong công tác cải cách hành chính, kiểm tra đột xuất, không báo trước tại Trung tâm Hành chính công các cấp, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hiện đại cấp xã của một số địa phương trên địa bàn tỉnh”4. Đặc biệt, sự kiên trì, nhất quán trong chủ trương và hành động qua nhiều nhiệm kỳ, bất chấp khó khăn, đã tạo dựng niềm tin vững chắc cho cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Bên cạnh tầm nhìn và ý chí, năng lực hoạch định chủ trương một cách khoa học, sát thực tiễn và bảo đảm tính khả thi cũng là một yếu tố quan trọng. Các chủ trương, nghị quyết của đảng bộ tỉnh không phải là những khẩu hiệu chung chung hay ý tưởng xa vời, mà luôn được xây dựng trên cơ sở phân tích kỹ lưỡng, đánh giá đúng tình hình thực tiễn của địa phương, tham khảo kinh nghiệm trong và ngoài nước, dự báo các xu hướng phát triển và đánh giá tác động đa chiều. Mỗi chủ trương đều xác định rõ mục tiêu cụ thể (thường là định lượng), lộ trình thực hiện khả thi, các giải pháp đồng bộ, nguồn lực đảm bảo và phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cấp, từng ngành, từng cá nhân. Chính sự chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản trong khâu hoạch định đã đảm bảo cho các chủ trương của Đảng bộ tỉnh khi được ban hành có tính khả thi cao, dễ dàng được cụ thể hóa và triển khai hiệu quả trong thực tiễn, tạo ra những chuyển biến thực chất.
Bốn là, vai trò của hệ thống chính trị và hiệu quả của công tác phối hợp.
Để những chủ trương đúng đắn, đột phá của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, không thể thiếu vai trò tổ chức thực hiện của cả hệ thống chính trị và một cơ chế phối hợp vận hành nhịp nhàng, đồng bộ. Nhận thức rõ điều này, đảng bộ tỉnh đã đặc biệt chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhằm tạo dựng và củng cố sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn bộ hệ thống, từ cấp tỉnh đến tận cơ sở. Tầm quan trọng chiến lược của việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh không chỉ được quán triệt sâu sắc trong nội bộ Đảng mà còn lan tỏa mạnh mẽ đến tất cả các cấp chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Nhờ đó, các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các đoàn thể không đứng ngoài cuộc mà đều xác định rõ trách nhiệm của mình, chủ động với tinh thần trách nhiệm cao, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, một ý chí thống nhất hướng về mục tiêu chung.
Trong đó, vai trò điều hành quyết liệt, năng động và hiệu quả của bộ máy chính quyền, trực tiếp là Ủy ban nhân dân tỉnh và các sở, ban, ngành, ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, có ý nghĩa then chốt. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền các cấp đã nhanh chóng, chủ động cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết thành những kế hoạch, chương trình hành động chi tiết, với mục tiêu, lộ trình và giải pháp rõ ràng. Quan trọng hơn, quá trình tổ chức thực hiện được triển khai một cách quyết liệt, không ngừng tìm tòi, áp dụng những cách làm mới, sáng tạo để nâng cao hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, rà soát, đánh giá kết quả được thực hiện thường xuyên, giúp kịp thời phát hiện những tồn tại, bất cập và chủ động đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nảy sinh từ thực tiễn, bảo đảm cho dòng chảy cải cách không bị tắc nghẽn.
Một yếu tố không thể tách rời, bảo đảm cho bộ máy vận hành hiệu quả chính là công tác cán bộ được đặc biệt coi trọng. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh luôn quan tâm đến việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí những cán bộ thực sự có năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt, có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, nhất là những người đứng đầu các cơ quan, đơn vị có vai trò quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc giải quyết thủ tục, hỗ trợ nhà đầu tư và doanh nghiệp. Chính đội ngũ cán bộ này là lực lượng nòng cốt, trực tiếp triển khai, đưa chủ trương của Đảng bộ vào thực tiễn một cách hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, cơ chế phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị là chất keo kết dính, bảo đảm sự vận hành thông suốt. Quảng Ninh đã thiết lập và không ngừng hoàn thiện các quy chế, quy trình phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, giữa các sở, ngành với nhau và giữa cấp tỉnh với cấp huyện trong việc giải quyết các thủ tục hành chính liên thông, xử lý các kiến nghị, đề xuất và tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư, tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian, gây bức xúc cho doanh nghiệp. Sự phối hợp nhịp nhàng này đã góp phần rút ngắn thời gian, giảm chi phí và tạo dựng niềm tin cho cộng đồng đầu tư.
Năm là, sự tương tác, phản hồi từ cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
Một yếu tố quan trọng định hình và hoàn thiện chủ trương xây dựng môi trường đầu tư của Đảng bộ Quảng Ninh là sự tương tác năng động và cơ chế tiếp nhận, xử lý phản hồi hiệu quả từ cộng đồng doanh nghiệp và người dân. Thay vì áp đặt chính sách, tỉnh chủ động xây dựng, duy trì các kênh lắng nghe và đối thoại thực chất, đa dạng, như: gặp mặt định kỳ, diễn đàn doanh nghiệp, “Cafe doanh nhân”, đường dây nóng, cổng thông tin điện tử, phát huy vai trò hiệp hội… Những kênh này tạo không gian mở để doanh nghiệp thẳng thắn bày tỏ ý kiến, kiến nghị, phản ánh khó khăn. Thái độ cầu thị, lắng nghe chân thành và xử lý kịp thời phản hồi từ lãnh đạo tỉnh, không chỉ giải quyết vấn đề cụ thể mà còn giúp nắm bắt “hơi thở” thực tiễn, nhận diện bất cập để điều chỉnh chủ trương, chính sách phù hợp, kịp thời, ngày càng hoàn thiện hơn.
Bên cạnh đối thoại trực tiếp, việc chủ động sử dụng kết quả từ các cuộc khảo sát, đánh giá độc lập là một cách tiếp cận khoa học và hiệu quả để có được cái nhìn khách quan, đa chiều về chất lượng điều hành và môi trường đầu tư. Quảng Ninh không chỉ phân tích sâu sắc kết quả từ các bộ chỉ số uy tín quốc gia như PCI, PAPI, SIPAS, PAR Index mà còn tiên phong xây dựng và sử dụng hiệu quả Chỉ số DDCI (đánh giá năng lực cạnh tranh cấp sở, ban, ngành, địa phương). Những con số, phân tích từ các báo cáo này cung cấp những bằng chứng cụ thể, đáng tin cậy về cảm nhận, mức độ hài lòng và những rào cản mà doanh nghiệp, người dân đang gặp phải trong từng lĩnh vực, từng địa bàn. Đây thực sự là nguồn thông tin đầu vào vô giá, giúp Đảng bộ tỉnh có cơ sở thực tiễn vững chắc để đánh giá đúng hiệu quả của các chủ trương đã ban hành và đưa ra những quyết sách điều chỉnh cần thiết, dựa trên dữ liệu thay vì cảm tính.
Công tác tuyên truyền, vận động, phổ biến chính sách luôn được Đảng bộ và chính quyền tỉnh Quảng Ninh chú trọng. Việc làm cho cộng đồng doanh nghiệp và người dân hiểu rõ lợi ích của việc cải thiện MTĐT đối với sự phát triển chung của tỉnh và lợi ích của chính mình đã tạo ra sự đồng thuận xã hội rộng rãi. Quan trọng hơn, sự đồng thuận này còn chuyển hóa thành hành động tham gia cụ thể, từ việc đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, tham gia giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức, đến việc phản biện xã hội một cách xây dựng, góp phần làm cho các chủ trương ngày càng hoàn thiện và đi vào cuộc sống hiệu quả hơn.
Điều quan trọng là các yếu tố tác động đến chủ trương xây dựng môi trường đầu tư của Quảng Ninh không biệt lập mà tương tác chặt chẽ, biện chứng, tạo thành thể thống nhất. Bối cảnh quốc gia, quốc tế tạo khung khổ và cơ hội/áp lực, nhưng chính tầm nhìn, ý chí, năng lực lãnh đạo của Đảng bộ mới quyết định việc nắm bắt thời cơ, vượt thách thức, biến định hướng vĩ mô thành hành động đột phá, phù hợp thực tiễn. Tương tự, tiềm năng, lợi thế của tỉnh là cơ sở xác định ưu tiên, song việc phát huy hay khắc phục điểm nghẽn phụ thuộc vào sự đúng đắn, sáng tạo của chủ trương và năng lực thực thi. Năng lực lãnh đạo là hạt nhân, nhưng hiệu quả lại dựa vào sự vận hành đồng bộ của hệ thống chính trị và chất lượng cán bộ. Ngược lại, phản hồi tích cực từ doanh nghiệp, xã hội vừa chứng minh hiệu quả chủ trương, vừa là nguồn thông tin quý giá giúp Đảng bộ liên tục hoàn thiện chính sách. Chính sự kết hợp hài hòa, sự cộng hưởng và phát huy đồng bộ sức mạnh tổng hợp của tất cả các yếu tố này, dưới vai trò dẫn dắt, điều phối trung tâm của một tập thể lãnh đạo Đảng bộ tỉnh chủ động, sáng tạo, quyết liệt và cầu thị, đã tạo nên những thành công ấn tượng, đưa Quảng Ninh trở thành một điểm sáng về xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh trong cả nước suốt thời gian qua.
4. Kết luận
Chủ trương lãnh đạo xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh chịu tác động tổng hợp từ nhiều yếu tố đa dạng. Các yếu tố khách quan, như: đường lối đổi mới, hội nhập của Đảng, Nhà nước và áp lực cạnh tranh quốc tế đóng vai trò nền tảng. Yếu tố nội tại như yêu cầu cấp bách chuyển đổi mô hình tăng trưởng và phát huy tiềm năng, lợi thế của tỉnh tạo ra động lực. Tuy nhiên, vai trò quyết định thuộc về các yếu tố chủ quan: tầm nhìn chiến lược, ý chí chính trị, tư duy đổi mới và năng lực lãnh đạo quyết liệt của Đảng bộ tỉnh qua các nhiệm kỳ. Sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị và sự tương tác hiệu quả với cộng đồng doanh nghiệp, xã hội (qua đối thoại, PCI, DDCI) cũng đóng góp quan trọng. Thành công của Quảng Ninh chứng minh rằng, năng lực và ý chí của chủ thể lãnh đạo là then chốt để biến cơ hội thành hiện thực, tạo sự khác biệt. Tư duy “dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm” cùng phương pháp lãnh đạo khoa học, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm là chìa khóa thành công. Do đó, Quảng Ninh cần tiếp tục phát huy kinh nghiệm, duy trì đổi mới, hoàn thiện thể chế, tăng cường đối thoại, giải quyết tồn tại. Các địa phương khác có thể học hỏi về xác định khâu đột phá, hành động quyết liệt và sử dụng công cụ đánh giá như DDCI.
Chú thích:
1, 2. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh (2022). Nghị quyết số 124/NQ-HĐND ngày 04/11/2022 về một số giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh gắn với chuyển đổi số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. tr. 2; 10.
3, 4. Tỉnh uỷ Quảng Ninh (2021). Báo cáo Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 09/4/2021 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030. tr. 4; 13.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2021). Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 về chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 – 2030.
2. Chính phủ (2022). Nghị quyết số 131/NQ-CP ngày 06/10/2022 về đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp.
3. Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh (2020). Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020-2025.