Quản lý thu ngân sách nhà nước của Việt Nam và kinh nghiệm cho nước CHDCND Lào

KongKeo LunmarLa
NCS Học viện Hành chính và Quản trị công

(Quanlynhanuoc.vn) –  Quá trình hoạch định chính sách thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường. Khi hoạch định và đổi mới chính sách thu ngân sách nhà nước, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đã nghiên cứu từng nguồn thu, nghiên cứu chế độ xuất phát, sau đó đưa ra những cải cách từng bước phù hợp với nhu cầu nền kinh tế. Từ chỗ chính sách thu được coi là hình thức điều tiết tập trung tài chính quốc dân vào ngân sách nhà nước để tái phân phối, Nhà nước đã bước đầu giảm bớt các mục tiêu không phù hợp, nhất là các mục tiêu khiến chính sách thu quá phức tạp, gây bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp ngân sách nhà nước. Trên cơ sở kinh nghiệm của Việt Nam, các cơ quan chức năng của nước CHDCND Lào cần nghiên cứu áp dụng phù hợp với thực tiễn.

Từ khóa: Chính sách thu ngân sách, thu ngân sách nhà nước, quản lý thu ngân sách, Việt Nam, CHDCND Lào.

1. Đặt vấn đề

Việt Nam và Lào có lịch sử phát triển khá tương đồng. Cũng như Lào, Việt Nam, sau một thời kỳ dài áp dụng mô hình hạch toán toàn dân qua ngân sách nhà nước không hiệu quả, đã thực hiện công cuộc cải cách sâu rộng để xây dựng nền tài chính công phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến nay, Việt Nam đã có nhiều cách làm hay, như: hoạch định chính sách thu ngân sách; tổ chức quá trình thu ngân sách; quản lý theo dõi nộp ngân sách; kiểm tra, kiểm soát quá trình thu… CHDCND Lào cần phải có những nghiên cứu công phu, thấu đáo về kinh nghiệm thu ngân sách nhà nước của Việt Nam để đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong thu ngân sách nhà nước hiện nay.

2. Quản lý thu ngân sách nhà nước của Việt Nam

Thứ nhất, kinh nghiệm hoạch định chính sách thu ngân sách nhà nước.

Quá trình hoạch định chính sách thu thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường. Khi hoạch định và đổi mới chính sách thu thu ngân sách nhà nước, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đã nghiên cứu từng nguồn thu, nghiên cứu chế độ xuất phát, sau đó đưa ra những cải cách từng bước phù hợp với nhu cầu nền kinh tế. Các chế độ thu được thay đổi dần dần tuỳ theo sự phát triển của nguồn thu, của trình độ quản lý chung và của nhu cầu chi tiêu nhà nước.

Về nội dung đổi mới chính sách thu, Việt Nam đã tiến hành các bước công việc sau:

(1) Giảm thiểu các mục tiêu xã hội, chính trị quá bao biện trong chính sách thu. Từ chỗ chính sách thu được coi là hình thức điều tiết tập trung tài chính quốc dân vào thu ngân sách nhà nước để tái phân phối, Nhà nước đã bước đầu giảm bớt các mục tiêu không phù hợp, nhất là các mục tiêu khiến chính sách thu quá phức tập, gây bất bình đẳng giữa các đối tượng nộp thu ngân sách nhà nước. Chính sách thu từng bước đã hạn chế tình trạng các mục tiêu mâu thuẫn nhau. Hiện nay, Nhà nước Việt Nam ưu tiên các mục tiêu sau trong hoạch định chính sách thu thu ngân sách nhà nước, như: bảo đảm nguồn tài chính tập trung đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước trong từng giai đoạn, kiểm soát bội chi NSNN; góp phần điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển và kích tích tăng trưởng; góp phần điều tiết thu nhập và phân phối công bằng.

(2) Củng cố cơ sở khoa học của các chính sách.Các cơ quan nhà nước Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu trong nước và nước ngoài thấu đáo, đã đưa chính sách mới ra thử nghiệm để điều chỉnh,  lấy ý kiến của các đối tượng nộp thu ngân sách nhà nước và các nhà khoa học trước khi thay đổi chính sách thu… Chương trình điều chỉnh chính sách thu đã được thực hiện theo hướng ngày càng công bằng hơn, giảm tỷ lệ bỏ sót các đối tượng thuộc diện nộp thu ngân sách nhà nước, giảm chi phí thu thu ngân sách nhà nước, chống thất thu thu ngân sách nhà nước… Nhờ có sự nghiên cứu nghiêm túc này, Việt Nam đã thành công trong việc chuyển hệ thống chính sách thu chủ yếu dựa vào thu nộp của thu ngân sách nhà nước và hợp tác xã sang hệ thống chính sách thu phù hợp với thông lệ quốc tế.

(3) Xóa bỏ sự phân biệt nghĩa vụ nộp thu ngân sách nhà nước giữa các thành phần kinh tế. Trong quá trình cải cách hệ thống chính sách thu thu ngân sách nhà nước, Việt Nam đã từng bước khắc phục được những yếu kém của hệ thống chính sách cũ trên các mặt: xoá bỏ sự phân biệt nghĩa vụ nộp thu ngân sách nhà nước giữa các thành phần kinh tế; tăng cường tính pháp lý của hệ thống chính sách thu thu ngân sách nhà nước; giảm mức độ phức tạp về phạm vi, chế độ miễm, giảm và đối tượng nộp thu ngân sách nhà nước. Khắc phục tình trạng chủ quan trong vận dụng chính sách thu thu ngân sách nhà nước.

(4) Chính sách thu thu ngân sách nhà nước đã bắt đầu phát huy được tác dụng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Thuế chuyển quyền sử dụng đất… đã có những quy định khuyến khích đầu tư phát triển sản suất kinh doanh. Chính sách thuế xuất nhập khẩu đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Một số chính sách thu khác có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hỗ trợ phát triển các vùng, ngành khó khăn, như: chính sách giá thuê đất, chính sách hoàn thuế.

(5) Chính sách thu đã từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã loại bỏ được hầu hết các sắc thuế gây trùng lặp, đã đưa vào vận hành hệ thống thuế hiện đại, như: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp… Quá trình đổi mới chính sách thu thu ngân sách nhà nước đã tạo mặt bằng cho hội nhập kinh tế quốc tế thuận lợi, đã có tác động tích cực đến việc tăng cường công tác hạch toán kế toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Kết quả rõ rệt nhất của cải cách chính sách thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam là đã xây dựng được hệ thống chính sách thu ngân sách nhà nước về cơ bản là hợp lý, hiện đại, trên hai phương diện: bảo đảm tính pháp lý cao và bao quát hầu hết các khoản thu. Chính sách thuế hiện đại ở Việt Nam không những phù hợp với chế độ phát triển kinh tế trong nước mà còn phù hợp với các cam kết quốc tế. Hệ thống thuế này bao gồm 8 sắc thuế chủ yếu, được chế tài bằng 6 luật, 3 pháp lệnh áp dụng thống nhất đối với mọi đối tượng nộp thuế. Các khoản thu khác có quy mô nhỏ, mang tính chất phí, lệ phí, như: thuế môn bài, lệ phí trước bạ, thuế chuyển quyền sự dụng đất cũng đã được pháp quy hóa, có tính ổn định. Chính sách thu từ tài sản, nhất là thu từ doanh nghiệp nhà nước và từ đất công đã minh bạch và hợp lý hơn.

Từ chỗ doanh nghiệp nhà nước gộp tất cả các khoản nộp vào thu ngân sách nhà nước trong thu quốc doanh, nay đã có sự phân biệt giữa nộp thuế, nộp lợi nhuận và nộp tiền bán tài sản vào thu ngân sách nhà nước. Chính sách phát triển trái phiếu chính phủ cũng từng bước được chuẩn hoá. Chính sách quản lý ODA cũng dần được hoàn thiện.

Quá trình đổi mới chính sách thuế, phí ở Việt Nam

Sắc thuếNgày ban hànhQuy trình sửa đổiHình thực hiện nay
1. Thuế sử dụng đất nông nghiệp10/7/19931993, 2003. 2010, 2020Luật
2. Thuế nhà, đất26/1/19911992, 1994, 2008, 2011, 2024, 2020Pháp lệnh sửa đổi
3. Thuế thu nhập cá nhân27/12/1990Sửa đổi bổ sung nhiều lần. Sửa đổi gần nhất là năm 2020Pháp lệnh sửa đổi
4. Thuế thu nhập doanh nghiệp1999Sửa đổi mới nhất 2020Luật sửa đổi
5. Thuế giá trị gia tăng10/5/19972020Luật sửa đổi
6. Thuế tiêu thụ đặc biết01/10/19901993, 1995, 1998; 2020Luật sửa đổi
7. Thuế tài nguyên30/3/19902017Pháp lệnh sửa đổi
8. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu16/2/1991Sửa đổi bổ sung nhiều lần. Sửa đổi gần nhất là năm 2017Luật sửa đổi
9. Các loại thuế – Môn bài – Chuyển quyền sử dụng đất – Chế độ thu tiền sử dụng đất – Trước bạ – Phí xăng dầu  2001 22/6/1994 28/8/2000 26/12/2000    1999, 2003  Pháp lệnh Luật Nghị định Nghị định
Nguồn: website của Bộ Tài chính Việt Nam.

Thứ hai, kinh nghiệm tổ chức quá trình thu ngân sách nhà nước.

Tổ chức quản lý thu ngân sách nhà nước của Việt Nam trong những năm qua được đánh giá là khá thành công. Trong những năm gần đây, tổng số thu ngân sách nhà nước của Việt Nam ngày một tăng, số thu năm sau cao hơn năm trước, trong đó thuế, phí và lệ phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu thu ngân sách nhà nước (90 – 95%).

Quá trình tổ chức thu ngân sách của Việt Nam được tiến hành bởi hai cơ quan chủ yếu, đó là Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan, ngoài ra còn có một số cơ quan tài chính khác được phân cấp thu các khoản mang tính đặc thù. Việt Nam tách biệt cơ quan thu với cơ quan quản lý quỹ của nhà nước. Tổng cục Thuế chịu trách nhiệm tất cả các khoản thu nội địa, Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm thu thuế xuất nhập khẩu và các khoản thu khác liên quan đến xuất nhập khẩu. Kho bạc Nhà nước quản lý mọi nguồn tiền thuộc thu ngân sách nhà nước. Ba cơ quan thu này đều trực thuộc Bộ Tài chính và được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Ngoài ra còn có bộ phận quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính.

Việt Nam xác định rằng quá trình thu ngân sách nhà nước là một khâu quan trọng trong chu trình ngân sách, bao hàm rất nhiều công việc cần phải làm, nhưng tập trung giải quyết hai vấn đề cơ bản đó là:

(1) Nuôi dưỡng nguồn thu.

Đây là vấn đề hết sức quan trọng quyết định đến quá trình thu ngân sách có hoàn thành theo kế hoạch hay không hoàn thành kế hoạch. Nói như vậy là vì, khi sản xuất kinh doanh phát triển hiệu quả mới tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Thực tế cho thấy rằng, chính sách thu có thể được xây dựng hết sức khoa học, lôgíc, tiên tiến, nhưng nếu người sản xuất kinh doanh không được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh doanh thấp, không có sức cạnh tranh trên thị trường… thì việc thực hiện thu ngân sách khó mà hoàn thiện theo kế hoạch. Vì vậy, tạo điền kiện và hỗ trợ sản xuất kinh doanh phát triển khi tổ chức triển khai quá trình thu ngân sách nhà nước là trách nhiệm trực tiếp của cơ quan thu, đồng thời, cũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

(2) Tổ chức thực hiện các biện pháp thu phù hợp thực tiễn.

Trong cuộc cải cách hành chính, Việt Nam đã triển khai thực hiện cơ chế một cửa, đơn giản hóa thủ tục quản lý hành chính, nhất là trong lĩnh vực hải quan áp dụng phương thức tự khai, tự nộp qua Kho bạc Nhà nước và ngân hàng thương mại… Đây là quá trình cải cách thủ tục hành chính trong quan lý thu ngân sách nhà nước được coi là thành công nhất từ trước đến nay của Việt Nam. Cùng với việc thực hiện cơ chế này, Việt Nam cũng giải quyết nhiều vấn đề khác, như xây dựng cơ chế phối hợp công việc, trao đổi thông tin, xử lý các tình huống giữa các bộ phận; xây dựng quy trình thu nộp bằng tiền chuyển khoản, bằng tiền mặt qua Kho bạc Nhà nước, qua ngân hàng; xây dựng quy trình thu bằng biên lai, quy trình thu tại cơ quan thu, quy trình thu tại Kho bạc Nhà nước, quy trình thu bằng ngoài tệ, quy trình thu các khoản thu mang tính đặc thu, như: vay trong nước, vay nước ngoài và quy trình thu các khoản thu khác… Nhờ các cải cách đó, phương pháp thu ngân sách nhà nước của Việt Nam đã mang kết quả tốt.

Ngoài ra, Việt Nam còn quản lý chặc chẽ các khoản thu. Nội dung quản lý các khoản thu ngân sách nhà nước bao gồm quản lý các khoản thu qua 3 cơ quan: Cơ quan quản lý thu; cơ quan quản lý kho bạc; cơ quan thanh tra, kiểm tra. Đây là quy trình quản lý thu hiệu quả do giảm thiểu cơ hội thông đồng trốn nộp ngân sách nhà nước; đồng thời, phát huy ý thức tự giác của người nộp.

Thành công dễ thấy nhất trong tổ chức quá trình thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam là triển khai thực hiện cơ chế tự khai, tự thu thuế với 3 điểm nổi bật:

Một là, đăng ký đối tượng nộp ngân sách nhà nước. Thông qua khâu này cơ quan thu nắm chắc số lượng đối tượng nộp ngân sách nhà nước và phân ra thành từng loại đối tượng để có cơ chế quản lý thích hợp. Việt Nam thực hiện hai phương pháp đăng ký, đó là phương pháp đăng ký thủ công (cấp số đăng ký áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và hộ cá thể nộp ngân sách nhà nước theo phương thức khoán) và phương pháp đăng ký hiện đại (cấp mã số nộp ngân sách nhà nước cho từng đối tượng nộp ngân sách nhà nước thống nhất trong phạm vi toàn quốc, áp dụng cho các doanh nghiệp vừa, lớn và các tập đoàn nộp ngân sách nhà nước theo sổ sách kế toán).

Hai là, quản lý theo dõi nộp ngân sách nhà nước. Việc theo dõi hộ kinh doanh cá thể được thực hiện sổ đăng ký hằng tháng. Đối với các doanh nghiệp có mã số thuế thì việc theo dõi quá trình nộp ngân sách nhà nước được thực hiện thông qua kiểm soát tại Kho bạc nhà nước và ngân hàng thương mại lập báo cáo kèm với chứng từ nộp ngân sách nhà nước gửi cơ quan thu ngân sách nhà nước trực tiếp quản lý nộp ngân sách nhà nước. Căn cứ vào chứng từ nộp ngân sách nhà nước do cơ quan trực tiếp quản lý thu theo dõi, phân tích số thu và phát hiện doanh nghiệp nào chưa nộp ngân sách nhà nước theo quy định để gửi thông báo nhắc nhở.

Ba là, kiểm tra, thanh tra và xử lý sau nộp ngân sách nhà nước. Hiện nay, Việt Nam đang nỗ lực nâng cao hiệu lực, hiệu quả của khâu công việc này, các nhà quản lý thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam đã nhận thức rõ kiểm tra, thanh tra sau khi đối tượng nộp ngân sách nhà nước là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay không thành công của quá trình thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp ngân sách nhà nước.

Ở Việt Nam, kinh tế nhà nước chiếm vai trò chủ đạo, bộ phận kinh tế này chiếm giữ các ngành, các lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Vì thế, quản lý chặt chẽ các khoản thu này có vai trò rất quan trọng về hai phương diện: tăng thu cho ngân sách nhà nước và góp phần sử dụng vốn nhà nước có hiệu quả hơn.

Trong những năm qua, Việt Nam đã chú trọng đến quá trình quản lý từ doanh nghiệp nhà nước theo hướng:

(1) Sửa đổi, bổ sung, cơ chế thu đối với doanh nghiệp nhà nước, trong đó đã có sự phân biệt giữa thu từ doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích và thu từ doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh.

(2) Kiện toàn bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổng công ty theo hướng tập trung nguồn lực của Nhà nước để chi phối những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng.

(3) Đẩy mạnh cổ phần hoá một phần hay 100% doanh nghiệp nhà nước, sáp nhập, bán, giải thể các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động kém hiệu quả… nhằm giảm áp lực đối với ngân sách nhà nước.

Quản lý khoản vay nợ của Nhà nước cũng được đổi mới theo hướng hiện đại, tích cực. Ở Việt Nam các khoản Nhà nước vay để đầu tư hay vay để cho doanh nghiệp vay lại được quản lý chặt chẽ, được các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát nghiêm ngặt trong tất cả các khâu, từ quy trình vay đến quy trình sử dụng, thu hồi khi đến hạn nhằm bảo đảm thu hồi được vốn trả nợ đúng hạn.

Thu từ bán và cho thuê tài sản công ở Việt Nam chủ yếu là từ đất và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Thu từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được hạch toán riêng trong Quỹ hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, chủ yếu được sử dụng đầu tư trở lại cho doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp khó khăn khi cổ phần hoá, không đưa trực tiếp vào ngân sách nhà nước. Thu từ cho thuê và chuyển giao sử dụng đất được cân đối trong ngân sách nhà nước nhưng chủ yếu giao cho chính quyền địa phương xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng và bù đắp chi phí giải phóng mặt bằng, phần đóng góp làm tăng thực sự quy mô thu ngân sách nhà nước thường xuyên không lớn.

Các khoản thu khác của ngân sách nhà nước ở Việt Nam thường không có tính ổn định, so với tổng thu ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ, cơ chế thu, quản lý và sử dụng cũng rất khác nhau. Chính vì vậy, việc nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý chung các khoản thu này là rất khó khăn. Tuy nhiên, ở Việt Nam các khoản này đã dược quản lý dựa trên các nguyên tắc sau: có các văn bản pháp luật quy định rõ ràng các khoản thu cụ thể; được hạch toán, đầy đủ, rõ ràng, minh bạch và tập trung đầy đủ vào ngân sách nhà nước; có quản lý bảo đảm công khai, phù hợp với quan điểm động viên, kể cả quá trình sử dụng các khoản thu này.

Thứ ba, kiểm tra, kiểm soát quá trình thu.  

Kiểm tra, kiểm soát quá trình thu ở Việt Nam được tiến hành theo cơ chế tự kiểm soát, tự kiểm tra hay còn gọi là kiểm tra nội bộ. Bộ phận kiểm tra nội bộ nằm ngay trong bộ máy tổ chức thuế, hải quan, tài chính và kho bạc các cấp. Ở cấp trung ương sẽ chuyên kiểm tra theo dõi, giám sát quá trình thu ngân sách nhà nước trên phạm vi cả nước. Ở cấp tỉnh thì chuyên kiểm tra, kiểm soát trên địa bàn tỉnh và cấp quận, huyện trực thuộc. Các bộ phận này sẽ trực tiếp theo dõi, phân tích tình hình nộp ngân sách của các đối tượng nộp ngân sách; đồng thời, theo dõi việc áp dụng các luật chế định thu ngân sách nhà nước của các cơ quan thu cùng cấp hoặc cấp thấp hơn, có thể kiểm tra trực tiếp việc thu nộp tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng thương mại.

Ngoài ra, còn có Kiểm toán nhà nước, Thanh tra tài chính, Thanh tra Chính phủ chuyên theo dõi, kiểm tra, kiểm soát nội bộ và thanh tra theo các vụ việc phát sinh. Bên cạnh đó, còn có tổ chức thanh tra nhân dân và kiểm soát của quần chúmg để giám sát tính minh bạch trong quản lý thu ngân sách nhà nước. Việc phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và nhân dân đối với việc quản lý thu ngân sách nhà nước ở cơ sở đang được Việt Nam triển khai từng bước.

Ngoài ra lĩnh vực thuế được kiểm soát bài bản và thường xuyên, việc kiểm tra, kiểm soát các khoản thu khác của ngân sách nhà nước ở Việt Nam được tiến hành theo từng nguồn thu và theo quy định của Nhà nước theo từng giai đoạn. Vì các khoản thu này thường có cơ chế, chính sách quản lý riêng cho nên sẽ rất khó có nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát chung.

Thứ tư, phối hợp quản lý thu và quản lý chi ngân sách nhà nước

Ở Việt Nam, trong thời kỳ đầu thực hiện đổi mới, vì Nhà nước chưa có kinh nghiệm quản lý ngân sách nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường nên phối hợp thu, chi ngân sách nhà nước rất khó khăn. Do ngân sách nhà nước thường xuyên thâm hụt nên Việt Nam tập trung nhiều cho vấn đề huy động để đáp ứng chi tiêu. Sự phối hợp chủ động giữa chi và thu chưa rõ rệt.

Từ năm 2000 trở lại đây, Việt Nam đã điều hành thu, chi ngân sách nhà nước linh hoạt hơn cho phù hợp với kinh tế thị trường. Nhà nước đã có chủ trương rõ rệt là kiểm soát thâm hụt ở mức hợp lý, việc mở rộng giới hạn chi đã được tính toán trong tương quan với số thu của nền kinh tế. Nhà nước có thể chủ động điều hành chi lớn hơn thu (thâm hụt chủ động) trong một khoảng thời gian nhất định, nếu thấy đem lại hiệu quả cho nền kinh tế.

3. Bài học kinh nghiệm rút ra cho nước CHDCND Lào

Qua nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu ngân sách nhà nước của Việt Nam có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm để vận dụng trong quản lý thu ngân sách nhà nước ở CHDCND Lào, như sau:

Thứ nhất, trong hoạch định chính sách thu ngân sách nhà nước cần xác định rõ và hạn chế các mục tiêu có thể đạt được của các chính sách thu, nhất là chính sách thuế, nhằm tăng tính khả thi và hiện thực của chính sách thu.

Chính sách thuế nên tập trung ưu tiên cho 3 mục tiêu: hỗ trợ phát triển kinh tế hiệu quả; bảo đảm cân đối hợp lý với chi ngân sách nhà nước và công bằng xã hội, trong đó, phát triển kinh tế luôn phải được coi là mục tiêu ưu tiên.

Hơn nữa, kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy, quản lý thu ngân sách nhà nước phải giải quyết hài hoà giữa bảo đảm số thu ngân sách nhà nước với nuôi dưỡng nguồn thu, tạo cơ sở cho nền kinh phát triển bền vững. Trong quản lý thu ngân sách nhà nước, Chính phủ Lào nên quan tâm cân đối giữa số thu cho ngân sách nhà nước và mức thuế suất khuyến khích đầu tư, thúc đẩy nền kinh tế phát triển hiệu quả, bền vững.

Thứ hai, cần coi trọng cơ sở và căn cứ của chính sách thu ngân sách nhà nước, trong đó căn cứ pháp lý, mức thu nhập của dân cư, trạng thái của nền kinh tế quốc gia, tình hình kinh tế thế giới cũng như chính sách thu của các nước liên quan có ý nghĩa quan trọng.

Trong điều kiện nền kinh tế của CHDCND Lào còn chưa phát triển ổn định thì quản lý thu càng phải thực hiện linh hoạt, sao cho phù hợp với điều kiện thực tế. Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy, muốn bảo đảm chính sách thu được hoạch định có căn cứ, cần coi trọng công tác dự báo tình hình kinh tế trong và ngoài nước, thu thập, lưu giữ thông tin về đối tượng nộp thuế một cách khoa học để có thể phân tích số liệu thống kê, tổng kết, rút kinh nghiệm phục vụ cho hoạch định chính sách thu ngân sách nhà nước hiệu quả, phù hợp với đường lối, trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phù hợp với thực tiễn nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ ba, tổ chức bộ máy thống nhất trong quản lý thu ngân sách nhà nước đi đôi với phân cấp hợp lý quản lý thu giữa cấp trung ương và cấp địa phương sao cho cấp trung ương giữ được vai trò chỉ đạo.

Trong tổ chức thống nhất, rất cần phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ quan thu và cơ quan quản lý tiền thu. Các cơ quan thu ngân sách nhà nước có thể được phân biệt theo các khoản thu, cũng có thể phối hợp theo chức năng. Mô hình phân theo khoản thu hiện cần được áp dụng như Việt Nam.

Ngoài ra, kinh nghiệm thành công của Việt Nam cũng cho thấy, cần thống nhất về quan điểm thu, thống nhất về phương pháp thu, thống nhất về thủ tục, quy trình quản lý thu trong cả nước để tạo điều kiện chuyên nghiệp hoá cán bộ thu ngân sách nhà nước, nhất là cán bộ thu thuế.

Thứ tư, tăng quản lý thu ngân sách nhà nước bằng pháp luật, cải cách hoạt động thu ngân sách nhà nước theo hướng rõ ràng, công khai, minh bạch và thuận tiện cho đối tượng nộp thuế.

Đây là xu hướng cải cách quản lý thu ngân sách nhà nước hiện hữu của các quốc gia. Việt Nam đã đi những bước đầu và kết quả cho thấy đây là hướng đi đúng, Lào cần tích cực triển khai, đây cũng là gợi ý tốt cho Lào trong bước chuẩn bị cải cách thuế. Cải cách thu thuế ở Việt Nam một lần nữa khẳng định rằng, quản lý thu thuế phải được tổ chức thuận lợi cho người nộp thuế mới thành công.

Thứ năm, tăng cường tuyên truyền đi đôi với chấp hành nghiêm pháp luật về nộp ngân sách nhà nước để nâng cao ý thức tự giác chấp hành chính sách thu của Nhà nước.

Kinh nghiệm của Việt Nam áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp cho thấy, tự giác của người dân quyết định kết quả thu ngân sách nhà nước. Những người dân chỉ tự giác nộp thuế khi họ nhận thức được tính hợp lý của các chính sách thu cũng như tính hợp lý của chính sách ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, tuyên truyền để người dân hiểu đúng về chính sách của Nhà nước là tiền đề cho công dân tự giác nộp ngân sách nhà nước. Đồng thời, kinh nghiệm của Việt Nam chỉ rõ, nếu kỷ luật nộp ngân sách nhà nước không nghiêm thì dân cư không tự giác nộp.

Thứ sáu, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đạo đức và thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý thu ngân sách nhà nước.

Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy, cán bộ quản lý trong các cơ quan thu ngân sách nhà nước và cơ quan liên quan quyết định hiệu quả của cơ quan thu ngân sách nhà nước. Một mặt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ quyết định chính sách thu có được hoạch định và tổ chức thực hiện đúng đắn hay không. Mặt khác, thái độ, đạo đức, tác phong của cán bộ thu ngân sách nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến người nộp thuế, khiến họ đồng tình hoặc phản đối việc nộp vào ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, để thành công, điều kiện tiên quyết là phải đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng nhiệm vụ cải cách quản lý thu ngân sách nhà nước.

Thứ bảy, ứng dụng khoa học – công nghệ nhằm hiện đại hóa công tác quản lý thu.

Kinh nghiệm của Việt Nam đã áp dụng ở mức độ cao khoa học – công nghệ vào quản lý thu ngân sách nhà nước đã chỉ ra rằng, Chính phủ Lào cần phải áp dụng mạnh mẽ khoa học – công nghệ vào thu chi ngân sách nhà nước là cần thiết, khách quan vì lợi ích nó đem lại rất lớn. Tuy nhiên, cần tính toán kỹ hiệu quả để áp dụng ở các mức độ hợp lý, vì áp dụng khoa học – công nghệ vào quản lý thu ngân sách nhà nước đòi hỏi cơ sở vật chất, hạ tầng công nghệ và đội ngũ cán bộ, công chức  phải thành thạo. Hơn nữa, áp dụng công nghệ cũng đòi hỏi những khoản chi đầu tư lớn, nếu không được sử dụng hiệu quả sẽ rất lãng phí cho đất nước Lào.

4. Kết luận

Trong điều kiện nền kinh tế của CHDCND Lào phát triển chưa ổn định như hiện nay, việc nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm thu ngân sách của các nước tiên tiến, trong đó có Việt Nam là rất cần thiết. Phải luôn xác định bảo đảm chính sách thu ngân sách được hoạch định có căn cứ, coi trọng công tác dự báo tình hình kinh tế trong và ngoài nước, thu thập, lưu giữ thông tin về đối tượng nộp thuế một cách khoa học để có thể phân tích số liệu thống kê, tổng kết, rút kinh nghiệm. Việc thu ngân sách phải thực hiện linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế; đồng thời, việc quản lý ngân sách nhà nước phải giải quyết hài hòa giữa bảo đảm số thu ngân sách nhà nước với nuôi dưỡng nguồn thu, tạo cơ sở cho nền kinh phát triển bền vững.

Tài liệu tham khảo:
1. Cải cách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam hướng đến tăng trưởng kinh tế bền vững. https://tapchicongthuong.vn/cai-cach-thue-doi-voi-doanh-nghiep-vua-va-nho-tai-viet-nam-huong-den-tang-truong-kinh-te-ben-vung-132601.htm, ngày 22/01/2025.
2. Cần lập dự toán thu ngân sách nhà nước chính xác. https://nhandan.vn/can-lap-du-toan-thu-ngan-sach-nha-nuoc-chinh-xac-post826773.html, ngày 26/8/2024.
3. Đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. https://tapchitaichinh.vn/doi-moi-dong-bo-he-thong-chinh-sach-thue-gop-phan-thuc-hien-cac-muc-tieu-phat-trien-kinh-te-xa-hoi.html, ngày 02/7/2022.
4. Quản lý ngân sách nhà nước tại Việt Nam: thực trạng và khuyến nghị. https://kinhtevadubao.vn/quan-ly-ngan-sach-nha-nuoc-tai-viet-nam-thuc-trang-va-khuyen-nghi-29860-29860.html, ngày 26/9/2024.
5. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015). Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
6. Quốc hội nước CHDCND Lào (2015). Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
7. Viêng Thoong Sỉ Phăn Đon (2010). Quản lý thu ngân sách nhà nước ở Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào. Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
8. Vannavongxay Phoukhaokham (2023). Chính sách thu ngân sách nhà nước đối với đất đai ở CHDCND Lào. Luật án tiến sỹ Tài chính, Học viện Tài chính, Hà Nội.
9. Vongphachanh Vongpadith (2018). Quản lý thu thuế ở CHDCND Lào. Luật án tiến sỹ Quản lý kinh tế,Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.