Đại tá, TS. Phạm Duy Hoàng
Trường Đại học An ninh nhân dân
(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bối cảnh hiện nay mang đến những thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với việc bảo đảm quyền con người. Bài viết nghiên cứu thời cơ, thách thức trong bối cảnh mới và đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền con người trong kỷ nguyên mới ở Việt Nam.
Từ khóa: Quyền con người, kỷ nguyên mới, thời cơ, thách thức, giải pháp.
1. Đặt vấn đề
Nghiên cứu lịch sử chính trị thế giới cho thấy, quyền con người luôn là khát vọng xuyên suốt của nhân loại, quyền con người gắn trực tiếp với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vì hòa bình, tự do và dân chủ. Trong tiến trình lịch sử đó, quyền con người có lúc thể hiện trong phạm vi của nhóm người, của giai cấp lãnh đạo (chủ nô, địa chủ, tư sản,…). Trong đó, quyền con người ở chế độ tư bản chủ nghĩa chưa thể hiện đầy đủ, toàn diện trong phạm vi một quốc gia, một dân tộc và cho toàn nhân loại.
Các quốc gia theo chủ nghĩa tư bản đã tiến hành các cuộc chiến tranh lớn (thế chiến I, năm 1914 – 1918; thế chiến II, năm 1939 – 1945) gây nên những tổn thất nặng nề đối với nhân loại. Sau thế chiến II, ngày 10/12/1948, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người (Universal Declaration of Human Rights – UDHR). Tuyên ngôn thể hiện: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới”. Việc ghi nhận của Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã góp phần định hướng xây dựng hệ thống luật pháp quốc tế và quá trình xây dựng hiến pháp, pháp luật của các quốc gia về quyền con người.
2. Khái lược quan điểm của Đảng về bảo đảm quyền con người
Ở Việt Nam, trong lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã dành phần lớn thời gian để chống ngoại xâm, quyết tâm giành độc lập, tự do, theo đó, dân tộc Việt Nam phải tự mình bảo vệ quyền con người trong những bối cảnh khắc nghiệt nhất. Thực tiễn đã chứng minh, dân tộc Việt Nam khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc bảo vệ, bảo đảm quyền con người luôn là mục tiêu cao cả nhất.
Ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh soạn thảo và thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng năm 1930 đã chỉ rõ mục tiêu, đường lối của cách mạng: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, theo đó thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là “phản đế” và “phản phong”. Cụ thể là giành độc lập dân tộc và giành các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân lao động.
Trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Những nội dung viện dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp vào Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cho thấy, quyền được sống trong hòa bình, độc lập, tự do của các dân tộc, các giai cấp bị áp bức bóc lột là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm thể hiện rõ quan điểm quyền con người là của cả nhân loại, không thể của một nhóm các quốc gia hay một giai cấp thống trị.
Trong thời bình, Đảng, Nhà nước tiếp tục đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để bảo vệ, bảo đảm quyền con người, qua từng giai đoạn, cho thấy sự phát triển đầy đủ, dần hoàn thiện về lý luận và tính phổ quát, chiều sâu của kết quả bảo vệ, bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, lần đầu tiên xác định “quyền con người” bên cạnh “quyền công dân”: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định quyền công dân và quyền con người”1.
Đến ngày 12/7/1992, lần đầu tiên Đảng ta ban hành Chỉ thị số 12/CT-TW của Ban Bí thư về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”. Chỉ thị số 12/CT-TW đề cao những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề quyền con người. Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về “Công tác nhân quyền trong tình hình mới”; Ban Bí thư ra thông báo Kết luận số 46-TB/TW ngày 06/02/2018 về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW. Văn kiện Đại hội dại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”2.
Những quan điểm của Đảng được thể chế hóa thành trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã cho thấy quyền con người Việt Nam lần đầu tiên được khẳng định đã cho Nhân dân của một quốc gia độc lập theo chế độ dân chủ Nhân dân: “Điều thứ 1: Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”3. Đến Hiến pháp năm 2013, tại Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”4.
2. Những điểm sáng về bảo đảm quyền con người của Việt Nam
Trong tiến trình bảo đảm quyền con người, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, khẳng định giá trị ưu việt của quyền con người xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng:
(1) Các quyền chính trị và dân sự.
Đảng đã ban hành chủ trương, chủ động chỉ đạo quá trình xây dựng và thực thi các chính sách, pháp luật. Ví dụ, quyền được sống đã được ghi nhận rõ ràng tại Điều 19 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”5. Trong lĩnh vực tư pháp, việc trừng phạt nghiêm minh đối với hành vi cướp đi mạng sống một cách tùy tiện, nghiêm cấm hành vi tra tấn, chỉ áp dụng án tử hình đối với những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, Việt Nam đã tiếp tục bãi bỏ án tử hình đối với 8 tội danh và không áp dụng hình phạt tử hình đối với các đối tượng đặc biệt được quy định trong luật.
Ngoài ra, nhiều quyền khác cũng đã được bảo vệ và triển khai hiệu quả, như quyền bầu cử, ứng cử và tham gia quản lý nhà nước, quyền tự do và an ninh, an toàn thông tin cá nhân, quyền tự do ngôn luận và báo chí, quyền tự do kết hôn và lập gia đình, quyền tự do đi lại và cư trú,… quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự và nhân phẩm, quyền được tự trình bày ý kiến, và quyền được xét xử công bằng.
(2) Về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Từ một quốc gia với nền kinh tế kém phát triển, đời sống xã hội, con người Việt Nam những khó khăn, tồn tại nhưng nay đã có bước tiến vượt bậc. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ khoảng 100 USD/người năm 1986 lên 4.700 USD/người. Chính thức ra khỏi nhóm các nước thu nhập thấp vào năm 2008, Việt Nam đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 33 trên toàn cầu với quy mô kinh tế 476,3 tỷ USD trong năm 20246.
Tuổi thọ trung bình của người dân cũng được cải thiện đáng kể, tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 75 tuổi trong năm 2024. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng gần 50% từ năm 1990, HDI của Việt Nam đạt 0,492 điểm; đến năm 2022, con số này tăng lên 0,726 điểm, thuộc nhóm các quốc gia có mức phát triển con người cao7.
Trong văn hóa, Đảng chủ trương xây dựng nền văn hóa “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, đã và đang nỗ lực bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, bao gồm: các di tích lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật truyền thống, lễ hội, phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, bảo đảm các quyền gìn giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, tiếp thu, lĩnh hội các giá trị văn hóa tiên tiến của thế giới.
Trong giáo dục, Đảng luôn coi trọng bảo đảm quyền con người về giáo dục – đào tạo, tạo cơ hội học tập, phát triển con người toàn diện cho mọi người. Từ năm 2017, với tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo 5 tuổi đạt 99,98% trở lên. Tỷ lệ học sinh đi học và hoàn thành chương trình tiểu học đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN8. Theo kết quả Tổng điều tra năm 2019, Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể khi tỷ lệ trẻ em đến trường là 91,7%9 (so với các năm 1999 tỷ lệ trẻ em đến trường là 79,1%, năm 2009 tỷ lệ này tăng lên 83,6%). Ngoài ra, Bộ Chính trị cũng đã quyết định thực hiện miễn toàn bộ học phí cho học sinh từ mầm non đến hết trung học phổ thông công lập trên phạm vi cả nước, thời điểm thực hiện từ đầu năm học mới 2025 – 2026.
(3) Về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Việt Nam đã xây dựng một khuôn khổ pháp lý vững chắc, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thông qua Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016. Đây là lần đầu tiên, pháp luật Việt Nam công nhận tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại. Các quy định về thời gian và thủ tục liên quan đến các hoạt động tôn giáo đã được điều chỉnh để tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức này. Tính đến tháng 5/2024, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, với trên 27 triệu đồng bào theo đạo (chiếm trên 27% dân số cả nước10. Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân, coi đó là nhu cầu chính đáng của Nhân dân, góp phần bảo đảm quyền con người.
(4) Quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Các đối tượng cần được ưu tiên bảo vệ, như: phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số,… luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt với các chủ trương, chính sách, quy định pháp luật bảo đảm quyền con người.
Điển hình như đối với phụ nữ, trong hoạt động chính trị, Việt Nam xếp từ thứ hạng 106 năm 2022 lên thứ hạng 89 năm 2023 (tăng 27 bậc) về bình đẳng giới trong hoạt động chính trị, trong đó tỷ lệ nữ trong nghị viện xếp hạng 53. Từ việc chỉ có 10 nữ đại biểu trong Quốc hội (khóa I) đến nay số nữ đại biểu Quốc hội (khóa XV) có 151 đồng chí, chiếm tỷ lệ là 30,26%11. Tỷ lệ nữ giám đốc/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã năm 2020 đạt 27,2%. Tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đạt 26,5%, tương đương với tỷ lệ ở các quốc gia phát triển, như: Pháp và Thụy Điển. Nỗ lực của Nhà nước trong việc hỗ trợ cho phụ nữ khởi nghiệp, như Chương trình hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025, đã giúp hơn 70.000 phụ nữ khởi nghiệp và thành lập hơn 5.000 hợp tác xã do phụ nữ làm chủ12.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, trong giai đoạn từ năm 1976 – 1992, tỷ lệ đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số khoảng 14%. Tuy nhiên, từ năm 1997 – 2011, con số này duy trì trên 17% trong ba nhiệm kỳ liên tiếp, vào nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII (2007 – 2011) đạt 17,65%, nhiệm kỳ khóa XIII (2011 – 2016) giảm nhẹ còn 15,6%, khóa XIV (2016 – 2021) là 17,3%, ở khóa XV (2021 – 2026), đạt mức cao nhất từ trước đến nay là 17,8% với 89 đại biểu từ 32 dân tộc trúng cử, gần đạt chỉ tiêu 18% theo quy định mới về ứng cử viên dân tộc thiểu số13.
Đối với chương trình xóa đói, giảm nghèo, tỷ lệ nghèo đói, theo tiêu chí cũ, đã giảm đáng kể, từ 58% năm 1993, xuống còn 2,93% vào năm 2023, dựa trên chuẩn nghèo đa chiều mới. Nhà nước triển khai nhiều chương trình phát triển kinh tế – xã hội gắn với an sinh xã hội, như: mục tiêu phát triển bền vững, xóa đói, giảm nghèo và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho bà mẹ và trẻ em. Các biện pháp cứu trợ khẩn cấp cũng đã được triển khai đối với những vùng chịu ảnh hưởng nặng nề từ thiên tai. Điển hình, như: Việt Nam đã xây dựng 84.888 căn nhà, xóa nhà tạm, nhà dột nát cho Nhân dân; cả nước còn khoảng 230.000 căn cần phải tập trung xây dựng, sửa chữa14.
3. Thời cơ và thách thức
Thứ nhất, ổn định chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo của Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội cần bám sát tình hình thực tiễn và ban hành các chủ trương, chính sách phù hợp, là nền tảng cơ bản giữ vững ổn định chính trị; sự đồng thuận xã hội là cũng điều kiện tiên quyết để triển khai nhất quán các chủ trương, chính sách, pháp luật, bao gồm các chính sách về quyền con người. Cùng với đó, xây dựng, từng bước hoàn thiện thể chế Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho việc xác định rõ nét hơn các giá trị về quyền con người.
Tuy vậy, một bộ phận cán bộ, lãnh đạo, đảng viên suy thoái chính trị, đạo đức lối sống, có hành vi vi phạm pháp luật; cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, cửa quyền,… một số khâu chưa hiệu quả, nhất là lĩnh vực an sinh xã hội đã ảnh hưởng đến việc bảo đảm quyền con người. Bên cạnh, việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng chậm, chưa đầy đủ, chưa tương xứng, quá trình triển khai thực thi pháp luật hiệu lực, hiệu quả kém sẽ dễ tác động, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình bảo đảm quyền con người.
Thứ hai, về phát triển kinh tế – xã hội.
Tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định ở mức cao, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện đáng kể, tạo nền tảng vật chất vững chắc để thực hiện tốt hơn các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội (quyền giảm nghèo, an sinh xã hội, y tế, giáo dục…). Tuy nhiên, khoảng cách giàu nghèo, chênh lệch phát triển giữa các vùng miền; các vấn đề xã hội nảy sinh, an ninh phi truyền thống, áp lực cạnh tranh kinh tế có thể ảnh hưởng đến quyền lợi người lao động nếu không được quản lý, điều hành tốt.
Thứ ba, hội nhập quốc tế về bảo đảm quyền con người.
Việc tham gia tích cực vào các công ước quốc tế về quyền con người, các cơ chế đa phương (như: Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, cơ chế UPR), các hiệp định thương mại thế hệ mới (có điều khoản về lao động, môi trường) tạo động lực và khung khổ để Việt Nam hoàn thiện chính sách, pháp luật và thực thi tốt hơn các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, quá trình hội nhập cũng có thể bị tác động bởi các quan điểm không phù hợp, trái chiều, thậm chí đối lập của các cá nhân, tổ chức, quốc gia về quyền con người.
Thứ tư, phát triển khoa học – công nghệ và chuyển đổi số.
Công nghệ thông tin và internet tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân trong việc tiếp cận thông tin, tri thức, dịch vụ công, giáo dục, y tế, bày tỏ ý kiến và tham gia quản lý xã hội. Với trình độ dân trí phát triển, người dân ngày càng hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình, chủ động hơn trong việc bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ và tham gia đóng góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật. Tuy vậy, sự phát triển của internet và mạng xã hội cũng đi kèm với nguy cơ lan truyền thông tin xấu độc, sai sự thật, kích động, gây chia rẽ, ảnh hưởng tiêu cực đến dư luận xã hội và công tác bảo đảm quyền con người.
4. Một số giải pháp bảo đảm quyền con người trong kỷ nguyên mới
Một là, tiếp tục đổi mới, nâng cao phương thức, nội dung lãnh đạo của Đảng; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá quá trình thể chế hóa các quy định về bảo đảm quyền con người. Rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về quyền con người đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các chuẩn mực quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tập trung nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính, tư pháp; tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiên quyết phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; nâng cao đạo đức công vụ và năng lực thực thi của đội ngũ cán bộ. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội. Tăng cường giám sát, phản biện xã hội; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người.
Hai là, phát triển kinh tế bền vững gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện các chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, giải quyết hài hòa lợi ích trong các vấn đề liên quan đến đất đai, tài nguyên. Tiếp tục thực hiện phương châm: “không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển”, đồng thời, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, hội nhập trên tinh thần: Nhân dân là trung tâm, là chủ thể. Thực hiện tốt chính sách bảo đảm an sinh xã hội. Có chính sách hỗ trợ đặc thù, lồng ghép vấn đề quyền của các nhóm yếu thế trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Ba là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức về bảo đảm quyền con người: đưa nội dung giáo dục quyền con người vào hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng bắt buộc, linh hoạt lồng ghép trong các học phần, môn học thuộc các chương trình đào tạo; nâng cao nhận thức cho toàn xã hội và ý thức chấp hành pháp luật; phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc thông tin chính xác, khách quan về quyền con người.Tăng cường quản lý không gian mạng, mạng xã hội bảo đảm tôn trọng quyền tự do thông tin, biểu đạt tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của công dân; đồng thời, đấu tranh với tin giả, xấu, độc. Chủ động đấu tranh phản bác các thông tin sai trái, thù địch về quyền con người.
Bốn là, chủ động, tích cực trong hợp tác quốc tế về quyền con người, đối thoại, hợp tác thực chất, cởi mở về quyền con người trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng, hiểu biết, tin cậy lẫn nhau trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của Liên hiệp quốc; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm tốt của các quốc gia về bảo đảm quyền con người. Đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ quan điểm, lập trường về bảo đảm quyền con người xã hội chủ nghĩa của Việt Nam, xác định lợi ích quốc gia – dân tộc là trên hết; sử dụng đa dạng các biện pháp để đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch, bọn phản động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. H. NXB Sự thật, tr. 19.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27 – 28.
3. Quốc hội (1946). Hiến pháp năm 1946.
4, 5. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
6. Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 10/01/2025 về Hội nghị Chính phủ với địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12/2024, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Nghi-quyet-09-NQ-CP-2025-Hoi-nghi-Chinh-phu-voi-dia-phuong-2024-640022.aspx.
7. Việt Nam thăng hạng vượt bậc về chỉ số phát triển con người, https://vneconomy.vn/viet-nam-thang-hang-vuot-bac-ve-chi-so-phat-trien-con-nguoi.htm.
8. Kết quả phổ cập giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở theo Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị (khóa XI). https://tapchigiaochuc.com.vn/ket-qua-pho-cap-giao-duc-mam-non-tieu-hoc-trung-hoc-co-so-theo-chi-thi-so-10-ct-tw-ngay-05-12-2011-cua-bo-chinh-tri-khoa-xi.html.
9. Kết quả toàn bộ tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2019/12/Ket-qua-toan-bo-Tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-2019.pdf.
10. Chủ tịch nước Tô Lâm: Các tổ chức tôn giáo luôn đồng lòng vì sự phát triển chung của đất nước. https://moha.gov.vn/so-lieu-thong-ke-nganh-noi-vu/linh-vuc-tin-nguong-ton-giao/chu-tich-nuoc-to-lam-cac-to-chuc-ton-giao-luon-don-d900-t56124.html.
11. Nữ đại biểu Quốc hội – Những người phụ nữ ưu tú đại diện cho nhân dân. https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=81191.
12. Việt Nam đứng thứ 6 trong nhóm quốc gia có tỷ lệ nữ doanh nhân cao nhất. https://hoilhpn.org.vn/web/ho-tro-phu-nu-khoi-nghiep-va-khoi-su-kinh-doanh/tin-chi-tiet/-/chi-tiet/viet-nam-%C4%91ung-thu-6-trong-nhom-quoc-gia-co-ti-le-nu-doanh-nhan-cao-nhat-61636-4401.html.
13. Thúc đẩy quyền tham gia của người dân tộc thiểu số vào Quốc hội. https://baodantoc.vn/thuc-day-quyen-tham-gia-cua-nguoi-dan-toc-thieu-so-vao-quoc-hoi-1701431759572. htm.
14. Tập trung hoàn thành mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát. https://nhandan.vn/tap-trung-hoan-thanh-muc-tieu-xoa-nha-tam-nha-dot-nat-post860279.html.