Đỗ Hoàng Vương
Lê Đức Anh
Lê Minh Đức
Trần Nguyễn Sơn Dương
Học viện An ninh nhân dân
(Quanlynhanuoc.vn) – Nghị quyết Đại hội lần thứ XVII Đảng bộ thành phố Hà Nội đã đề ra mục tiêu 100% người dân được tiếp cận nước sạch. Theo đó, thời gian qua, hệ thống cấp nước sạch trên địa bàn Thủ đô đã được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn nhằm bảo đảm đáp ứng nhu cầu của Nhân dân. Tuy nhiên, trên thực tế ý thức pháp luật của một bộ phận người dân, doanh nghiệp trong bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch còn hạn chế. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần tiến hành thường xuyên, liên tục để góp phần bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống cấp nước sạch trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
Từ khóa: Tuyên truyền, phổ biến pháp luật, an ninh hệ thống cấp nước sạch, thành phố Hà Nội.
1. Khái quát về hệ thống cấp nước sạch trên địa bàn thành phố Hà Nội
Hà Nội hiện nay có vị trí tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên – Vĩnh Phúc ở phía Bắc; Hà Nam – Hòa Bình ở phía Nam; Bắc Giang – Bắc Ninh – Hưng Yên ở phía Đông và Hòa Bình – Phú Thọ ở phía Tây. Thủ đô Hà Nội có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, có các sông chảy qua Hà Nội, như: sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu, sông Đáy, sông Cà Lồ. Trong nội đô còn có các sông: sông Kim Ngưu, sông Tô Lịch cũng như một hệ thống đầm hồ làm đường tiêu thoát nước thải của Thành phố, như: hồ Hoàn Kiếm, hồ Tây, hồ Bảy Mẫu, hồ Thiền Quang, hồ Linh Đàm, hồ Yên Sở, hồ Thanh Nhàn… với diện tích ao, hồ, đầm hiện còn 3.600 ha1 có khoảng 1970 trạm bơm, 104 hồ chứa nước, 378 đập dâng nước và có 5800 tuyến sông kênh. Đây là những nguồn tài nguyên nước lớn phục vụ cho đời sống người dân Thủ đô.
Hiện nay, tổng công suất nguồn cấp nước từ các nhà máy nước tập trung trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay đạt trên 1.530.000m3/ngđ, cơ bản đáp ứng nhu cầu dùng nước của người dân Thủ đô. Trên địa bàn Thành phố có trên 20 doanh nghiệp khai thác, sản xuất, phân phối, kinh doanh nước sạch… Ngoài ra, trên địa bàn Thành phố đang triển khai, nghiên cứu xây dựng kế hoạch triển khai một số dự án phát triển nguồn nước. Tuy nhiên, tình hình triển khai các dự án khai thác nguồn nước còn chậm trễ, vướng mắc.
Công tác quản trị nguồn nước còn yếu, công tác bảo đảm an ninh an toàn đập, hồ chứa nước còn nhiều hạn chế, chưa hiệu quả; ý thức người dân trong việc quản lý, khai thác, sử dụng nước chưa cao; ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng. Việc phát triển công nghiệp, đô thị chưa gắn với bảo đảm an ninh nguồn nước, làm suy giảm số lượng, chất lượng nguồn nước, điển hình như do thiếu nước, mất nước nên đã xảy ra tại khu đô thị Thanh Hà do nguồn nước sạch không bảo đảm chất lượng, gây ảnh hưởng đến đời sống, sức khỏe của cư dân trong khu đô thị, khiến người dân rất bức xúc, đã căng băng rôn, khẩu hiệu, tụ tập đông người, kêu gọi chia sẻ trên các trang mạng xã hội, gửi đơn kiến nghị đến các cấp các ngành… gây phức tạp an ninh, trật tự tại địa bàn, tiềm ẩn nguy cơ bị các đối tượng phản động lợi dụng kích động, biểu tình, xuyên tạc nói xấu Đảng, Nhà nước, chính quyền Thành phố không quan tâm đến đời sống, sức khỏe của người dân.
Nguồn nước mặt phục vụ khai thác của các nhà máy gồm sông Đà, sông Đuống, sông Hồng luôn tiềm ẩn nguy cơ bị ô nhiễm. Lý do là thượng nguồn khai thác của các con sông lớn này đều bắt nguồn từ nước ngoài, dòng chảy trải dài qua nhiều tỉnh, thành, đứng trước nguy cơ bị ô nhiễm từ chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp, chất thải sinh hoạt do các cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp và cũng người dân thải ra, ảnh hưởng đến chất lượng nước cấp; điển hình trong tháng 9/2022 nhà máy nước mặt sông Đà đã phải tạm dừng cấp nước do vụ tai nạn lật xe tải tại khu vực suối Cun gây chảy dầu về hồ Đầm Bài, ảnh hưởng đến công tác vận hành cấp nước phục vụ sinh hoạt cho người dân Thủ đô2.
Việc ô nhiễm môi trường đất, nước tại một số khu vực gia tăng do việc khai thác khoáng sản, sử dụng hóa chất bừa bãi trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tràn lan, việc chôn lấp xử lý rác thải tại một số khu vực không đúng quy chuẩn; do tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, làng nghề thủ công ngày càng mở rộng, lượng chất thải rắn, chất thải lỏng chưa kiểm soát được gây ô nhiễm, suy thoái nhanh nguồn nước mặt, nước ngầm. Đặc biệt, kết cấu hạ tầng nông thôn không đáp ứng, nhiều khu vực còn chưa có hệ thống xử lý nước thải dẫn đến nguồn nước ô nhiễm, ngấm xuống lòng đất, chảy ra các con sông lớn gây ô nhiễm môi trường đất, nước tại khu vực.
Tình hình vi phạm trong lĩnh vực tài nguyên nước còn tiềm ẩn nhiều phức tạp do chưa kiểm soát được các nguồn thải ra môi trường và chưa quan tâm đầu tư thỏa đáng cho hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải rắn dẫn tới việc ô nhiễm, suy thoái nhanh nguồn nước mặt, nước ngầm, điển hình đổ trộm dầu thải đầu nguồn nước sông Đà ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình vào cuối tháng 10/2019, đã gây ô nhiễm nguồn nước sạch cung cấp cho Thành phố Hà Nội, gây ảnh hưởng đến đời sống, đe dọa sức khỏe của hàng vạn hộ dân khu vực phía Tây Nam Hà Nội – nơi chủ yếu dùng nguồn nước sạch từ Nhà máy nước sạch sông Đà3.
2. Hệ thống pháp luật bảo đảm an ninh hệ thống nước sạch trên địa bàn thành phố Hà Nội
Pháp luật vừa là cơ sở pháp lý, vừa là công cụ quản lý hiệu quả góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước nói chung và hệ thống cấp nước sạch nói riêng, thời gian quan, Nhà nước đã ban hành hệ thống pháp luật liên quan tương đối đầy đủ, điển hình như:
Luật An ninh quốc gia năm 2004, đã quy định rõ: “Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia tại địa phương; thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc theo quy định của pháp luật” và “Bảo vệ an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, tổ chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia theo quy định của pháp luật”. An ninh hệ thống cấp nước sạch là một bộ phận an ninh quốc gia nên trách nhiệm bảo đảm an ninh là trách nhiệm toàn dân, cần phối hợp của các cơ quan, tổ chức.
Luật Tài nguyên nước đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 27/11/2023. Luật đã quy định về quản lý, bảo vệ, điều hòa, phân phối, phục hồi, phát triển, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 23 Điều 2, Luật này cung đã giải thích rất rõ về khái niệm an ninh nguồn nước: “Là việc bảo đảm số lượng, chất lượng nước phục vụ dân sinh trong mọi tình huống, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước cho các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường và giảm thiểu rủi ro, tác hại từ các thảm họa do con người và thiên nhiên gây ra liên quan đến nước”. Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước quy định 10 hành vi bị nghiêm cấm, khuyến cáo tổ chức, cá nhân tuân thủ không thực hiện các hành vi nghiêm cấm tại Điều 8 và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bảo đam an ninh nguồn nước nói chung và hệ thống cấp nước sạch nói riêng.
Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của Chính phủ về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 124/2011/NĐ-CP ngày 28/12/2011. Nghị định này quy định về các hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch theo hệ thống cấp nước đô thị và nông thôn. Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản. Nghị định số 43/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch. Nghị định này hướng dẫn về quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch, bao gồm việc giao, cho thuê, chuyển nhượng quyền khai thác và bán tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch.
Nghị định số 53/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 của Chính phủ hướng dẫn Luật Tài nguyên nước. Quyết định số 1595/QĐ-TTg ngày 23/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước. Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 06/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Thông tư số 23/2022/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2022 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện bảo đảm cấp nước an toàn khu vực nông thôn. Thông tư này quy định về việc lập kế hoạch, triển khai và giám sát thực hiện cấp nước an toàn tại khu vực nông thôn. Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD ngày 27/4/2020 của Bộ Xây dựng hợp nhất các nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch. Văn bản này tập hợp và hệ thống hóa các quy định liên quan đến hoạt động cấp nước sạch, giúp các cơ quan, tổ chức và cá nhân dễ dàng tra cứu và thực hiện.
Trên cơ sở các văn bản trên, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành các bản tổ chức thực hiện, cụ thể như: Quyết định số 312/QĐ-UBND ngày 19/11/2021 của UBND Thành phố về ban hành phương án đảm bảo an ninh an toàn hệ thống cấp nước trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Quyết định số 5704/QĐ-UBND ngày 09/11/2023 của UBND Thành phố về việc công bố Danh mục thủ tục hành chính, sửa đổi, bổ sung lĩnh vực Tài nguyên nước trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kế hoạch số 228/KH-UBND ngày 01/8/2024 thực hiện Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 06/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên quan đến bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch đối với người dân sinh sống xung quanh các công trình cấp nước, cán bộ, nhân viên trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng như đội ngũ cán bộ, công nhân viên tại các đơn vị cung cấp nước sạch trên địa bàn Thủ đô có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ góp phần nâng cao nhận thức, ý thức cảnh giác của quần chúng nhân dân và lực lượng liên quan trong phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm; củng cố tinh thần, trách nhiệm trong tham gia bảo vệ an ninh hệ thống cấp nước sạch trên địa bàn Thủ đô góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ trên trong giai đoạn tới.
3. Giải pháp tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Một là, cần chủ động triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước đến toàn thể người dân bằng nhiều hình thức phù hợp, đa dạng. Việc này nhằm tạo điều kiện để người dân tiếp cận pháp luật một cách thuận lợi, từ đó nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội trong quá trình triển khai các dự án xây dựng nhà máy cấp nước sạch trên địa bàn Thủ đô – một yếu tố thiết yếu phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng nhu cầu lợi ích cộng đồng. Đặc biệt, công tác tuyên truyền cần chú trọng làm rõ vai trò, quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức trong bảo đảm an ninh hệ thống nước sạch. Việc phổ biến đầy đủ các quy định này sẽ giúp các chủ thể liên quan nhận thức rõ trách nhiệm pháp lý, nghĩa vụ và quyền hạn trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự nói chung và bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch trên địa bàn Thủ đô nói riêng.
Hai là, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Công an Thành phố, các sở, ban, ngành, đặc biệt là áp dụng triệt để khoa học – công nghệ trong việc xây dựng các chương trình, kế hoạch tuyên truyền cụ thể nhằm phổ biến, giáo dục pháp luật cho các chủ thể liên quan đến công tác bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sách cũng như đối với quần chúng nhân dân nhằm nâng cao nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành trong thực tiễn, tạo nền tảng xã hội đồng thuận trong bảo vệ hệ thống cấp nước sạch.
Nội dung tuyên truyền cần được triển khai dưới nhiều hình thức đa dạng, như: văn bản, hình ảnh trực quan, video, tài liệu hướng dẫn… với trọng tâm là các kiến thức cơ bản và chuyên sâu về công tác bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch. Bên cạnh đó, cần phối hợp với địa bàn có các đơn vị cung cấp nước sạch hoạt động, tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn, huấn luyện kỹ năng và nâng cao cảnh giác cho cán bộ, người lao động và Nhân dân các khu vực liên quan.
Ba là, ủy bản nhân dân xã, phường, thị trấn tổ chức thường xuyên các hoạt động tuyên truyền, vận động tổ chức, cá nhân trên địa bàn Thành phố nghiêm túc chấp hành các quy định pháp luật liên quan đến công tác bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch, như: xây dựng kế hoạch tập huấn hằng năm về phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng đô thị, bao gồm các quy định tại Luật Tài nguyên nước của Quốc hội, nghị định của Chính phủ, văn bản chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cũng như các quy định của UBND Thành phố… dành cho cán bộ quản lý và người dân trên địa bàn. Tổ chức các chương trình tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật về công tác bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch cho toàn bộ các chủ thể có liên quan, từ người dân, đơn vị thi công đến đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, vận hành hệ thống.
Biên soạn và phát hành Sổ tay pháp luật, tập hợp các quy định quan trọng từ các luật, nghị định, thông tư, quyết định liên quan đến bảo đảm an ninh hệ thống cấp thoát nước. Tài liệu này cần được gửi đến các cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị đầu tư, quản lý, vận hành, tổ dân phố… nhằm làm cơ sở tham khảo và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác truyền thông: công khai thông tin pháp luật và nội dung tuyên truyền trên Cổng thông tin điện tử của các phường, xã, thị trấn; xây dựng chuyên mục hỏi – đáp để tiếp nhận, giải đáp kịp thời các vướng mắc phát sinh trong quá trình xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống cấp nước sạch. Đồng thời, có thể thành lập các nhóm trao đổi trực tuyến (như trên nền tảng mạng xã hội) để kết nối giữa các đơn vị cung cấp nước, cơ quan quản lý nhà nước và cộng đồng nhằm chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, hình thành cơ sở dữ liệu pháp lý phục vụ tra cứu và thực hiện.
4. Kết luận
Trong thời gian tới, với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa ngày càng nhanh, môi trường đất, tài nguyên nước sạch luôn đứng trước nguy cơ ô nhiễm, ảnh hưởng đến công tác khai thác, sản xuất và phân phối nước sạch phục vụ sinh hoạt cho người dân Thủ đô. Theo dự báo số lượng khách hàng đăng ký sử dụng nước sạch tại khu vực đô thị sẽ còn tiếp tục tăng, cùng với nhu cầu sử dụng nước cũng tăng. Nếu các dự án xây dựng hệ thống cấp nước sạch bị chậm tiến độ, không hoàn thành và đưa vào sử dụng theo đúng tiến độ đã đề ra thì chắc chắn sẽ xảy ra tình trạng thiếu nước cục bộ, đặc biệt là ở các khu vực cuối nguồn, khu vực có địa hình cao, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt của người dân Thủ đô, có thể dẫn đến tình trạng khiếu kiện, tụ tập đông người, đăng tin bài gây dư luận xấu, gây phức tạp về an ninh, trật tự. Chính vì vậy, thực hiện đồng bộ giải pháp trên sẽ nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật góp phần bảo đảm an ninh hệ thống cấp nước sạch trên địa bàn Thủ đô trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ (2007). Nghị định số 117/2007/NĐ-CP ngày 11/7/2007 về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch.
2. Chính phủ (2020). Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản.
3. Chính phủ (2022). Nghị định số 43/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng cấp nước sạch.
4. Chính phủ (2024). Nghị định số 53/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 hướng dẫn Luật Tài nguyên nước.
5. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2022). Thông tư số 23/2022/TT-BNNPTNT ngày 30/12/2022 hướng dẫn thực hiện bảo đảm cấp nước an toàn khu vực nông thôn.
6. Bộ Xây dựng (2020). Văn bản hợp nhất số 12/VBHN-BXD ngày 27/4/2020 hợp nhất các nghị định về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch.
7. UBND thành phố Hà Nội (2021). Quyết định số 312/QĐ-UBND ngày 19/11/2021 về ban hành phương án đảm bảo an ninh an toàn hệ thống cấp nước trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
8. UBND thành phố Hà Nội (2023). Quyết định số 5704/QĐ-UBND ngày 09/11/2023 về việc công bố Danh mục thủ tục hành chính, sửa đổi, bổ sung lĩnh vực Tài nguyên nước trên địa bàn thành phố Hà Nội.
9. UBND thành phố Hà Nội (2024). Kế hoạch số 228/KH-UBND ngày 01/8/2024 thực hiện Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 06/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên địa bàn thành phố Hà Nội.
10. Quốc hội (2004). Luật An ninh quốc gia năm 2004.
11. Quốc hội (2023). Luật Tài nguyên nước năm 2023.
12. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 1595/QĐ-TTg ngày 23/12/2022 ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước.
13. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 161/QĐ-TTg ngày 06/02/2024 về phê duyệt kế hoạch thực hiện quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.