ThS. Lê Quang Chung
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số là nội dung, biện pháp quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phát triển toàn diện về năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Bài viết làm rõ vai trò của việc bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; thực trạng bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi thời gian qua; từ đó, đề xuất một số biện pháp cơ bản bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi trong hệ thống chính trị Việt Nam thời gian tới.
Từ khoá: Bồi dưỡng; nguồn nhân lực; khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Mở đầu
Một trong nội dung, biện pháp quan trọng để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Do đó, bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng đưa nghị quyết của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vào thực tiễn cuộc sống; góp phần nâng cao năng xuất lao động, chất lượng công việc, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân và doanh nghiệp, tăng tốc, bứt phá đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mơi, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh vượng, sánh vai cùng với các cường quốc năm châu trên thế giới.
2. Nguồn nhân lực yếu tố quan trọng để thực hiện ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong giai đoạn hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhà nước cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài”1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tài đối với sự phát triển của đất nước. Nhân tài là một bộ phận của xã hội, có trình độ, kiến thức, năng lực hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực xã hội, được đào tạo cơ bản ở các môi trường giáo dục khác nhau. Vì vậy, việc lựa chọn nhân tài đúng lúc, đúng chỗ, đúng thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng để tham mưu, đề xuất, góp ý và cống hiến tài năng, trí tuệ, sở trường của mình cho Đảng, Nhà nước đưa sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của đất nước vượt qua mọi chông gai, thử thách đi đến thắng lợi cuối cùng. Kế thừa những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lựa chọn người tài để phát triển đất nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra hệ thống nội dung, biện pháp quan trọng để bồi dưỡng nguồn nhân lực phù hợp với từng lĩnh vực, giai đoạn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Quan điểm, tư tưởng xuyên suốt được Đảng ta xác định là: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”2.
Nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số có vai trò đặc biệt quan trọng để vận hành, sử dụng, khai thác có hiệu quả thành tựu của khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể. Máy móc, khoa học, công nghệ hiện đại, chuyển đổi số đi vào thực tiễn cuộc sống, chuyển hoá thành của cải vật chất khi có nguồn nhân lực chất lượng cao biết sử dụng, ứng dụng một cách mạnh mẽ, tích cực, phù hợp và hiệu quả. Máy móc, khoa học, công nghệ, chuyển đổi số dù có hiện đại đến bao nhiêu không có nguồn nhân lực khai thác, sử dụng thì mãi là những vật vô chi, vô giác, không có tác dụng, ý nghĩa trong cuộc sống. Trong bối cảnh Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển như vũ bão hiện nay, khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo là “chìa khoá” của mọi thành công, thúc đẩy sự phát triển của lực lực lượng sản xuất, việc có nguồn nhân lực sử dụng càng đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết, không chỉ là nhu cầu trước mắt, mà còn là vấn đề mang tính chiến lược cơ bản lâu dài để bảo đảm tuổi thọ của các loại máy móc, khoa học, công nghệ hiện đại.
Bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số ở cơ quan, đơn vị, địa phương là tổng thể những hoạt động của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầ nhằm khai thác, sử dụng tốt nhất vào sản xuất, kinh doanh, giải quyết, xử lý công việc cho người dân, doanh nghiệp, thực hiện có hiệu quả các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số luôn gắn liền với bồi dưỡng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đại hội lần thứ XI (năm 2011) của Đảng chỉ rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”3.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế xác định giải pháp: “Xây dựng và thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ. Đội ngũ chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp. Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán bộ khoa học và công nghệ phát triển bằng tài năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình. Nâng cao năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý khoa học và công nghệ ở các ngành, các cấp. Có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành, cán bộ khoa học và công nghệ được giao chủ trì nhiệm vụ quan trọng của quốc gia, cán bộ khoa học và công nghệ trẻ tài năng”4.
Đại hội lần thứ XII (năm 2016) của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”5.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”6. Nghị quyết số 57 của Đảng một lần nữa khẳng định: “Chú trọng bảo đảm nguồn nhân lực cao cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; có cơ chế, chính sách đặc biệt về nhân tài”7.
Từ những quan điểm của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ và chuyển đổi số rút ra một số nội dung cơ bản sau: Một là, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của việc bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Nguồn nhân lực cho phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số là nhân tố cơ bản quyết định đến việc khai thác, sử dụng có hiệu quả, phù hợp khoa học, công nghệ tiên tiến hiện đại, thực hiện chuyển đổi số trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Hai là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số linh hoạt, sáng tạo ở từng ngành, lĩnh vực cụ thể.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, nhất là người dân và doanh nghiệp cùng tham gia vào bồi dưỡng nguồn nhân lực cho phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Thực hiện quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ứng dụng phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Thời gian qua, cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương đã quán triệt và nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ứng dụng, phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vào thực tiễn cuộc sống. Công tác tuyên truyền, giáo dục được cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu quan tâm, chú trọng, thường xuyên đổi mới về nội dung, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng phù hợp với các chuyên ngành, lĩnh vực đào tạo.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 2023-2024, các cơ sở giáo dục đại học trên cả nước tuyển gần 3.400 người học bậc tiến sĩ và gần 40.600 bậc học thạc sĩ. Nhóm ngành học Máy tính, công nghệ Thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật tăng 33,3%, số lượng sinh viên tuyển sinh các trường đại học tăng lên 617.800 chỉ tiêu8. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc ứng dựng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số được đầu tư xây dựng mới, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có môi trường ứng dụng, phát triển thuận lợi, phát huy tốt năng lực, sở trường, thế mạnh của mình cho nhiệm vụ ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Người dân, doanh nghiệp tích cực, chủ động ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vào sản xuất, kinh doanh, sử dụng các tiện ích về khoa học, công nghệ để nâng cao chất lượng cuộc sống. Những bộ phận, lực lượng đảm nhiệm việc ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số tích cực, chủ động tự học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ năng lực phương pháp tác phong công tác đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được việc bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số vẫn còn một số hạn chế: nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu trong tuyên truyền, giáo dục về vai trò của bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số chưa sâu sắc, toàn diện, kịp thời; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức còn lúng túng, bị động trong ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; trình độ, hiểu biết về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ cho từng lĩnh vực, hoạt động cụ thể. Cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số chưa kịp thời, hiệu quả; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa tích cực, chủ động tự bồi dưỡng, tự nghiên cứu khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
3. Một số biện pháp bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “phải coi khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực chủ chốt. Đây chính là “chìa khoá vàng” là yếu tố sống còn để vượt qua bấy thu nhập trung bình và nguy cơ tụt hậu, đồng thời hiện thực hoá khát vọng hùng cường và thịnh vượng của dân tộc ta”9. Với tinh thần đó, trước hết, các chủ thể lãnh đạo, quản lý làm tốt công tác quán triệt và tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các tầng lớp Nhân dân về vai trò của việc bồi dưỡng nguồn nhân lực ựng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương tuyên truyền, phổ biến sâu rộng những quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Cán bộ, công chức, viên chức cần được nắm rõ, hiểu biết sâu rộng chủ trương bồi dưỡng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số nhằm mục đích phát triển đất nước, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, phục vụ hữu ích cho người dân và nghiệp; đa dạng hoá các nội dung, hình thức, biện pháp tuyên truyền, giáo dục; lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nòng cốt trong ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số để hướng dẫn, giải thích, giúp đỡ người dân, doanh nghiệp và những cán bộ, công chức, viên chức chưa biết, chưa rõ, chưa thành thạo trong sử dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương hành động mạnh mẽ, quyết liệt, đề cao tinh thần, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng. Lựa chọn những đồng chí trẻ đi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, năng lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, tổ chức những lớp tập huấn, bồi dưỡng về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức; đẩy mạnh thực hiện phong trào bình dân học vụ số trong toàn cơ quan, đơn vị, địa phương, trong toàn xã hội; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mỗi cán bộ, công chức, viên chức tự mình học tập, bồi dưỡng nâng cao khả năng ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong đơn vị hành chính sự nghiệp.
Thường xuyên đặt ra yêu cầu cao cho cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình làm việc, nhất là trong ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, giải quyết, xủ lý công việc bằng các phần mềm ứng dụng công nghệ cao, có khả năng kết nối giữa người dân, doanh nghiệp, rút ngắn thời gian, khoảng cách về thời gian, đem lại hiệu năng, hiệu quả trong công việc.
Nghị quyết số 57 nhấn mạnh: “Các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, xác định rõ trách nhiệm, chủ động triển khai thực hiện. Người đứng đầu phải trực tiếp phụ trách, chỉ đạo; cán bộ, đảng viên phải gương mẫu thực hiện”10.
Hai là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Nghị quyết số 57 xác định: “Khẩn trương sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đồng bộ các quy định pháp luật về khoa học, công nghệ, đầu tư, đầu tư công, mua sắm công, ngân sách nhà nước, tài sản công, sở hữu trí tuệ, thuế… để tháo gỡ các điểm nghẽn, rào cản, giải phóng các nguồn lực, khuyến khích, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia, phát triển nguồn nhân lực”11. Với tinh thần này, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần rà soát các văn bản đã ban hành về phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số phù hợp với xu thế phát triển của xã hội; xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng để các tầng lớp Nhân dân được tiếp cận, ựng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; phân công, giao nhiệm vụ cho các đồng chí đi đào tạo, bồi dưỡng về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số và có chính sách hỗ trợ về phương tiện, kinh phí sinh hoạt; trong quá trình làm việc cần có những cơ chế đặc thù riêng để thu hút, giữ chân cán bộ, công chức, viên chức phụ trách, trực tiếp làm việc trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; có chính sách tôn vinh, biểu dương, khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức có trình độ, năng lực tốt trong ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số, kể cả người dân, doanh nghiệp có những sáng kiến, mô hình kinh nghiệm hay trong phát triển kinh tế – xã hội có ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số đem lại hiệu quả về mặt kinh tế – xã hội, có giá trị lan toả trong xã hội, đóng góp nhất định vào các hoạt động của cơ quan, đơn vị, địa phương.
Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức không chuyên trách về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số để hoàn thành các công việc, nhiệm vụ hàng ngày, giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, doanh nghiệp, lưu trữ các thông tin có liên quan đến Nhân dân. Cán bộ, công chức, viên chức có trình độ, tay nghề về phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số cần được đối xử xứng đáng, nhất là vào dịp lễ, tết, ngày tôn vinh khoa học, công nghệ; xây dựng các phong trào thi đua về ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong cơ quan, đơn vị, địa phương tạo bầu không khí thi đua sôi nổi, hào hứng trong cán bộ, công chức, viên chức theo phương châm ai cũng phải nâng cao trình độ hiểu hiết về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Các cơ chế, chính sách bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số trong cơ quan, đơn vị, địa phương kịp thời, hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của cán bộ, công chức, viên chức; góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức, viên chức.
Ba là, phát huy tính tích cực, chủ động trong tự bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số của hệ thống chính trị.
Từng cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị không ngừng tự học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức, năng lực về mọi mặt, trong đó có kiến thức về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số. Kiến thức về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số là nội dung mới và khó đòi hỏi mỗi cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu tự mình cập nhật, bổ sung, hoàn thiện đáp ứng với tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi. Trong từng công việc vị trí đảm nhiệm cán bộ, công chức, viên chức thương xuyên học hỏi lẫn nhau, đồng chí biết về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số hướng dẫn, giúp đỡ đồng chí chưa biết; cấp trên bồi dưỡng, kèm cặp cấp dưới; phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong cơ quan, đơn vị, địa phương cùng tham gia bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số.
Cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị tự mình đặt ra yêu cầu cao trong tự bồi dưỡng kiến thức, năng lực, trình độ về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; không tự kiêu, tự mãn, giấu rốt; kiên trì, bình tĩnh trong tự bồi dưỡng, học tập kiến thức về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; tích cực, chủ động tìm hiểu các kiến thức, nội dung về khoa học, công nghệ, chuyển đổi số thông qua các phương tiện truyền thông khác nhau, thông qua các mối quan hệ xã hội để tự hoàn thiện mình, tự mình vươn lên trong công việc, cuộc sống. Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Chúng ta đang sống trong thời đại mà tri thức, kiến thức, hiểu biết sẽ giúp con người phát huy cao độ tiềm năng để tận dụng tốt các cơ hội, ứng phó hiệu quả với những thách thức để phát triển bền vững”12.
4. Kết luận
Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định đến thành công của mọi lĩnh vực, trong phát triển khoa học, công nghệ, chuyển đổi số càng có ý nghĩa thiết thực, cụ thể hơn bao giờ hết để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển kinh tế – xã hội đã xác định. Do đó, bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa, hội nhập quốc tế là vấn đề cơ bản thường xuyên, lâu dài ở các cấp, các ngành. Trong quá trình bồi dưỡng nguồn nhân lực ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội tạo thành sung lực mạnh mẽ thúc đẩy thực hiện các chỉ tiêu, nội dung của Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, các Nghị quyết Trung ương (khoá XIII) đã xác định, nâng cao vị thế, uy tín đất nước trên trường quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 114.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 13.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.130.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) (2012). Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr.90.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 203 – 204.
7, 10, 11. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
8. Dương Tâm (2024). Số người học tiến sĩ, thạc sĩ trong nước tăng. https://vnexpress.net, ngày 09/8/2024.
9. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. https://baochinhphu.vn, ngày 13/01/2025.
12. Tô Lâm (2025). Học tập suốt đời. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/03/03/hoc-tap-suot-doi/.