Giải pháp phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội 

Đỗ Văn Phúc
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

(Quanlynhanuoc.vn) – Nông nghiệp xanh đã từng bước giữ vị trí chủ đạo trong xu hướng phát triển một nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh ở thành phố Hà Nội. Bài viết khái quát dự báo tình hình phát triển, đưa ra những quan điểm trên cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó, đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy nông nghiệp xanh Thủ đô phát triển toàn diện, nhưtập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách, đột phá trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ, huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn và phát triển kết cấu hạ tầng xanh hiện đại thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải.

Từ khóa: Phát triển nông nghiệp xanh; nông nghiệp sinh thái; giải pháp; thành phố Hà Nội.

1. Dự báo tình hình phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội

Với quyết tâm của chính quyền, cơ quan chức năng các cấp và các doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp và nông dân Thủ đô thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh thành phố Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, nông nghiệp xanh ở thành phố sẽ có phát triển vượt bậc. Theo đó, ngành Nông nghiệp Hà Nội sẽ đẩy mạnh các hoạt động nhằm sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, góp phần bảo vệ môi trường, đồng thời, từng bước thay đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.

Hà Nội phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng cơ cấu lại ngành, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô. Đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp hiện đại, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, kinh tế tuần hoàn gắn với phát triển công nghiệp chế biến nông sản, thích ứng với biến đổi khí hậu và kết nối bền vững với chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất cây, con giống; phát triển nông nghiệp xanh, sinh thái thông minh, gắn với phát triển đô thị, dịch vụ, du lịch nông thôn, giáo dục trải nghiệm… Phát huy tối đa những lĩnh vực, sản phẩm nông nghiệp có giá trị gia tăng cao; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm.

Dự kiến tỷ lệ sản phẩm nông nghiệp xanh ứng dụng công nghệ cao trên 70%. Tỷ lệ giá trị sản xuất trồng trọt mỗi năm tăng 0,4 – 0,7% trở lên; tỷ lệ giá trị sản phẩm trồng trọt được sản xuất dưới các hình thức hợp tác và liên kết bền vững đạt từ 45% trở lên. Phấn đấu diện tích sản xuất thực hành nông nghiệp tốt 30 – 40%, nông nghiệp hữu cơ đạt khoảng 2 – 3% tổng diện tích gieo trồng. Đồng thời, nỗ lực hoàn thành mục tiêu, sẽ giảm 1,76 triệu tấn CO2 vào năm 2025 và 4,88 triệu tấn CO2 vào năm 2030 trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp1.

Tuy nhiên, cũng phải xác định rõ Hà Nội vẫn đang phải đối mặt với những bất cập về tình trạng các hệ thống cơ sở hạ tầng, các yếu tố điều kiện về biến đổi khí hậu, đất đai, dân cư,… đã tác động đến môi trường, dẫn đến mức độ phát thải cao; việc đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, ứng dụng giống mới, dùng phân bón hữu cơ vi sinh, cải tiến quy trình kỹ thuật còn yếu; chưa có sự gắn kết các chuỗi giá trị nông sản với công nghệ cao, nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ và chưa thực sự tạo cơ chế thích hợp cho cho lao động nông thôn của địa phương.

2. Quan điểm phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội

Thứ nhất, phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội phải dựa trên nền tảng phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao hiệu quả, tăng cường liên kết sản xuất, tiêu thụ.

Đây là quan điểm trung tâm, chỉ đạo xuyên suốt và bao trùm quá trình phát triển nông nghiệp xanh ở nước ta nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng. Thực chất quan điểm này thể hiện sự kết hợp chặt chẽ phát triển nông nghiệp xanh cả về chiều rộng và chiều sâu, xây dựng một nền nông nghiệp xanh hiện đại với năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng cao, có sức cạnh tranh trên thị trường và bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm căn cứ vào Kế hoạch số 272/KH-UBND về thực hiện “Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2022 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên địa bàn thành phố Hà Nội” và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi cách thức sản xuất từng ngày, từng giờ. Mặt khác, nước ta hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, thị trường hàng hóa nông sản sẽ được mở rộng, cạnh tranh khốc liệt… Do đó, phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội phải phù hợp xu hướng tiến bộ khoa học – công nghệ, gắn với nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước.

Thứ hai, phát triển nông nghiệp xanh phải phát huy được lợi thế và phù hợp với thực tiễn của từng địa phương ở thành phố Hà Nội.

Đây là một trong những quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển nông nghiệp nói chung và phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội nói riêng. Quan điểm này dựa trên cơ sở: Một mặt, phát triển nông nghiệp xanh là một bộ phận của Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030 được đang được tiến hành; mặt khác, phát triển nông nghiệp xanh là quá trình vừa là đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa phụ thuộc vào tiềm năng, lợi thế của mỗi địa phương. Do đó, quán triệt tốt quan điểm này, sẽ khắc phục được tình trạng phát triển tự phát, sai quy hoạch, sản xuất manh mún, không sát với điều kiện thực tiễn dẫn đến hiệu quả thấp, không đạt được mục tiêu đã đề ra.

Thứ ba, phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó hộ nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp là chủ thể trực tiếp, quyết định.

Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, bảo đảm cho phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội có sự đồng thuận cao của tất cả các chủ thể có liên quan, tạo sức mạnh tổng hợp cả về nhận thức và hành động. Phát triển nông nghiệp xanh là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là một cuộc “cách mạng” trong nông nghiệp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều này đòi hỏi có sự kết hợp cao của sức sản xuất xã hội, phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của các chủ thể, nhất là các chủ thể sản xuất (chủ yếu bao gồm: Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà môi giới). Bởi vậy, phát triển cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, mà trực tiếp là tính tích cực, chủ động, sáng tạo của cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương, các thành phần kinh tế, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội tham gia vào phát triển nông nghiệp xanh.

3. Giải pháp phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội

Để cụ thể hóa được những chủ trương trên, đưa nông nghiệp xanh trở thành xu hướng chủ đạo của nông nghiệp Hà Nội, trong thời gian tới, thành phố cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho phát triển nông nghiệp xanh.

Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng nhằm khơi thông điểm nghẽn, tạo lập môi trường pháp lý để huy động đa dạng các nguồn lực của các thành phần kinh tế, đồng thời là cơ sở định hướng nông nghiệp phát triển theo mục tiêu xanh. 

Trước hết, Hà Nội cần nhanh chóng hướng dẫn, áp dụng chính sách đất đai mới, Thực hiện “tập trung đất đai để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp quy mô lớn”2 để tháo gỡ những bất cập trong quản lý, sử dụng đất đai hiện nay về tập trung ruộng đất; có các cơ chế, chính sách thông thoáng trao quyền chủ động cao hơn cho người dân được giao đất, thuê đất tạo điều kiện cho phát triển nông nghiệp xanhtheo hướng sản xuất hàng hóa chuyên canh quy mô lớn. Cùng với đó, điều chỉnh, bổ sung chính sách tài chính, tín dụng, triển khai kịp thời các cơ chế, chính sách về tín dụng nông nghiệp, nông thôn theo hướng “ưu tiên dành vốn tín dụng cho khu vực nông nghiệp xanh, nông  nghiệp công nghệ cao”3. Đồng thời, hoàn thiện chính sách nhằm khuyến khích phát triển hợp tác xã và doanh nghiệp nông nghiệp tham gia vào sản xuất, phát triển nông nghiệp xanh. Thành phố xây dựng kế hoạch phát triển nhân lực cho sản xuất nông nghiệp xanh, trong đó chú trọng các chính sách phát huy tiềm năng khoa học – công nghệ của đội ngũ các nhà khoa học để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển nông nghiệp xanh, coi đó là “bước đột phá cho nông nghiệp Thủ đô”4

Hai là, đột phá trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Đây là giải pháp quan trọng, giữ vai trò then chốt và là nhân tố tạo ra động lực cho nông nghiệp xanh phát triển. Đây là “đòn bẩy” mang lại hiệu quả cao, góp phần trực tiếp làm tăng năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông phẩm xanh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Để huy động tốt nguồn khoa học – công nghệ cho phát triển nông nghiệp xanh, Hà Nội cần tập trung nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại vào các lĩnh vực, các khâu, quy trình sản xuất. Tận dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thư tư, tiến hành nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ một cách đồng bộ để thay đổi phương thức sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm có năng suất, chất lượng cao. Xây dựng cơ chế thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo trong các mô hình nông nghiệp xanh, tập trung vào công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ chuyển đổi và lai tạo gen, chuyển đổi số, công nghệ xử lý sau thu hoạch… Thực hiện bảo tồn, phát triển các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường bảo đảm nông nghiệp xanh phát triển bền vững. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp xanh, kiên quyết loại bỏ các dự án có công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.

Ba là, tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn cho phát triển nông nghiệp xanh.

Đây là giải pháp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện, tiền đề bảo đảm cho phát triển nông nghiệp xanh ở thành phố Hà Nội. Đồng thời, giải pháp này khắc phục tình trạng khan hiếm, thiếu hụt trong huy động hoặc thất thoát, lãng phí, sai mục đích sử dụng nguồn vốn.

Để thực hiện giải pháp này, Hà Nội cần xây dựng cơ chế riêng về huy động vốn cho phát triển nông nghiệp xanh, nhất là chính sách cho vay của các ngân hàng thương mại đối với hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp và hợp tác xã, hộ gia đình. Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, vay vốn đầu tư nước ngoài: Đối với nguồn vốn từ nguồn ODA, đề nghị Chính phủ qui định rõ và rút ngắn thời gian thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư ODA ở các cơ quan Trung ương, địa phương; tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn thu hút vốn FDI bằng cách “xây dựng các khu, vùng nông nghiệp xanh, quy hoạch đất đai, nguồn nhân lực và dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra những điều kiện thuận lợi… thu hút các dự án FDI có quy mô lớn, công nghệ tiên tiến”5. Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho đầu tư của khu vực ngoài nhà nước, khuyến khích tư nhân tự đầu tư hoặc góp vốn với doanh nghiệp để sản xuất nông nghiệp xanh. Thực hiện quản lý và sử dụng vốn đúng quy định của pháp luật hiện hành; bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, an toàn về vốn để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.

Bốn là, phát triển kết cấu hạ tầng xanh hiện đại thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải.

Đây là giải pháp quan trọng, được coi là cơ sở để phát triển nông nghiệp xanh. Hoạt động này không chỉ thay đổi diện mạo nông thôn, mà còn kéo theo sự thu hút các doanh nghiệp đầu tư, tạo “cú hích” bứt phá, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân.

Giải pháp này đòi hỏi thành phố cần đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật xanh đồng bộ và hiện đại đồng bộ về hệ thống thủy lợi, giao thông và xử lý chất thải… Về hệ thống thủy lợi, cần rà soát và bổ sung quy hoạch, đầu tư các trung tâm quan trắc và cảnh báo môi trường ở các khu vực trồng trọt, chăn nuôi tập trung, hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý thủy lợi theo hướng hiện đại, gọn nhẹ và hiệu quả, xây dựng hệ thống mương lọc sinh học nhằm tối ưu hóa việc thẩm thấu nguồn nước bề mặt và làm giảm lượng cặn lắng cũng như các chất gây ô nhiễm từ nguồn nước tự nhiên như mưa, lũ… Đối với hệ thống giao thông nông thôn, bên cạnh chương trình của Thành phố, kế hoạch của huyện, đề án, quy hoạch của xã về xây dựng nông thôn mới đã được phê duyệt, “Phòng Kinh tế và Hạ tầng huyện, Ủy ban nhân dân các xã cần phải xây dựng được đề án (hoặc kế hoạch) thực hiện cụ thể đối với tiêu chí giao thông”6; qua đó, xác định được lộ trình, giải pháp và nguồn lực để thực hiện một cách hợp lý. Về hệ thống thu gom, xử lý các loại rác thải, phế phẩm, phụ phẩm của quá trình sản xuất nông nghiệp, quy hoạch các khu vực thu gom và xử lý chất thải nông nghiệp tập trung, đẩy mạnh chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển khí sinh học, kèm theo các chính sách hỗ trợ tín dụng cho hộ gia đình, cơ sở chăn nuôi xây dựng công trình khí sinh học nhằm hạn chế ô nhiễm đất, nước, giảm thiểu tác của hiệu ứng nhà kính do sử dụng nhiên liệu hóa thạch trong nông nghiệp tạo ra.

Chú thích:
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Hà Nội (2023). Báo cáo số 388/BC-SNN ngày 23/11/2023 về tình hình thực hiện Kế hoạch hành động tăng trưởng xanh. 
2. Quốc hội (2024). Luật Đất đai năm 2024.
3. Chính phủ (2017). Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 về các giải pháp trọng tâm phát triển nông nghiệp công nghệ cao
4. Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội (2023). Nghị quyết 08/2023/NQ-HĐND ngày 07/7/2023 ban hành quy định về một số chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp thành phố Hà Nội.
5, 6. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 1569/QĐ-TTg ngày 12/12/2024 phê duyệt Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.