Thiếu tá, TS. Vũ Việt Hà
Học viện Chính trị Công an nhân dân
(Quanlynhanuoc.vn) – Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là biểu hiện của sự tha hóa về quyền lực. Làm thất thoát tài sản, ngân sách của nhà nước, suy giảm lòng tin, niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo, điều hành của Nhà nước, ảnh hưởng tới vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và nguy hiểm hơn tham nhũng còn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ. Đảng và Nhà nước rất quan tâm và chỉ đạo sát sao công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, coi đây là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị cũng như phát huy vai trò của quần chúng nhân dân. Bài viết tập trung luận giải về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, từ đó đề xuất một số giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phòng, chống; giải pháp.
1. Luận giải về tham nhũng, lãng phí, tiêu cực
(1) Tham nhũng là hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới với mức độ và biểu hiện khác nhau. Vì vậy, các quốc gia đều rất quan tâm đến việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, xa dân là kẻ thù của nhân dân và Chính phủ, tham nhũng là “giặc ở trong lòng”, “giặc nội xâm”; quá trình phát triển của chủ nghĩa cá nhân làm đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên bị lấn át, bị phai mờ, xuất hiện những biểu hiện xa lạ, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của Nhân dân.
Để hiểu một cách đầy đủ nhất, toàn diện nhất cũng như thấy được tính chất xấu xa của tệ tham nhũng, cần phải nhìn nhận tham nhũng dưới nhiều góc độ và tiếp cận trên nhiều phương diện khác nhau. Nếu nhìn dưới góc độ chính trị thì tham nhũng chính là sự tha hóa về quyền lực. Bởi lẽ, quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự thân mà quyền lực đó do Nhân dân ủy quyền, nhân dân trao quyền. Người dân mong muốn nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước sẽ thay mặt mình điều hành xã hội, làm cho xã hội ổn định, phát triển, Nhà nước phải bảo đảm và bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Trong quá trình điều hành đó, cán bộ được sử dụng quyền lực của Nhà nước và quyền lực đó phải được dùng để phục vụ cho lợi ích chung của quốc gia, của dân tộc. Việc sử dụng quyền lực nhà nước chỉ trong phạm vi mà Hiến pháp và pháp luật quy định. Tuy nhiên, trên thực tế nếu cán bộ nào không sử dụng quyền lực vào mục đích công mà lại lợi dụng quyền lực nhân dân trao cho để phục vụ lợi ích riêng của mình thì đó là tham nhũng. Vì vậy, muốn phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả cao thì việc coi trọng và thực hiện tốt hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước là vô cùng cần thiết.
Nếu nhìn dưới góc độ tâm lý thì tham nhũng là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Cùng với đó, khi môi trường xuất hiện những điều kiện thuận lợi cho tham nhũng phát triển thì những ham muốn cá nhânsẽ trỗi dậy chỉ đạo và định hướng hành vi của con người theo hướng tiêu cực, phá hoại thành quả của tổ chức, của xã hội. Nếu đặt cá nhân trong mối quan hệ với tổ chức, khi tổ chức trao quyền cho một cá nhân, mà trong tư tưởng của họ có chủ nghĩa cá nhân ngự trị thì bản thân họ sẽ đặt lợi ích của mình lên trên hết. Để thỏa mãn lòng tham, khi có điều kiện, có cơ hội họ sẽ thực hiện nhiều hành động sai trái, thiếu chuẩn mực để chiếm đoạt lợi ích của tập thể.
Nếu nhìn dưới góc độ văn hóa thì tham nhũng là sự vi phạm nghiêm trọng chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực văn hóa của người cán bộ trong thi hành công vụ. Một người cán bộ tốt, không chỉ là người có trình độ, có chuyên môn, có nghiệp vụ tốt mà còn phải là người có đạo đức tốt, có văn hóa ứng xử tốt. Phải suy nghĩ và hành động vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì lợi ích của cách mạng, chứ không phải vì địa vị và danh lợi cá nhân. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải “Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công, Vô tư” trong xử lý công việc. Như vậy, nếu một cán bộ mà vi phạm về đạo đức, vi phạm các chuẩn mực văn hóa nói chung trong đó có văn hóa liêm chính nói riêng dẫn đến những hành vi lệch chuẩn trong điều hành, xử lý công việc để vụ lợi thì đó là tham nhũng.
Nếu nhìn dưới góc độ kinh tế thì tham nhũng là hành vi lợi dụng quyền lực để chiếm đoạt của công nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích cá nhân. Xã hội loài người đã chứng minh lòng tham của con người hướng tới lợi ích trước hết là lợi ích về kinh tế. Một người nắm quyền lực về mặt chính trị, tất yếu sẽ nắm quyền lực về mặt kinh tế. Theo quy luật đó, nếu như quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ thì họ dễ rơi vào trạng thái lợi dụng quyền lực để chỉ đạo, điều hành, điều khiển hành vi của mình hoặc người khác nhằm chiếm đoạt tài sản công. Xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng, trong đó nhu cầu và lợi ích về kinh tế vẫn là yêu cầu được đặt lên hàng đầu, đó là động cơ thúc đẩy các hành vi tham nhũng.
Nếu nhìn dưới góc độ pháp lý thì tham nhũng là hành vi vi phạm pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để vụ lợi. Tham nhũng là hành vi vi phạm những quy định của pháp luật do những người có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Những người này đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà mình được giao, coi đó là phương tiện để thực hiện những hành vi tham nhũng. Họ đã không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ được giao. Và mục đích cuối cùng, đó là mang lại lợi ích về vật chất hoặc những lợi ích phi vật chất không chính thức nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân hoặc của gia đình họ.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thì các hành vi tham nhũng, bao gồm: tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
(2) Lãng phí hiểu một cách đơn giản chính là làm hao tổn, sử dụng không hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, tài sản, ngân sách của nhà nước, lãng phí nguồn nhân lực trong bộ máy nhà nước. Khoản 2 Điều 3 Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 quy định lãng phí là việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản, lao động, thời gian lao động và tài nguyên không hiệu quả. Đối với lĩnh vực đã có định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thì lãng phí là việc quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước và tài nguyên vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc không đạt mục tiêu đã định.
Ngân sách nhà nước có được là do nguồn đóng góp từ thuế của Nhân dân, của tổ chức. Ngân sách hiện nay được chi với rất nhiều hạng mục khác nhau từ chi lương cho cán bộ, công chức, xây dựng công sở, mua sắm trang thiết bị làm việc trong các cơ quan nhà nước, đầu tư cho hệ thống giao thông, bệnh viện, trường học công lập… nếu tất cả các khoản chi đó không được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, đúng đối tượng sẽ gây lãng phí lớn cho quốc gia, cho dân tộc và đó chính là mồ hôi, nước mắt, công sức đóng góp của nhân dân. Việc tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ làm việc không đúng chuyên môn, nghiệp vụ, không đúng vị trí, không khai thác được nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là lãng phí. Nguồn tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng…) nếu không được khai thác, sử dụng, quản lý hiệu quả cũng sẽ dẫn đến cạn kiệt, đó cũng là lãng phí. Những dự án, công trình xây dựng đã thi công mà không đưa vào sử dụng, sử dụng không hiệu quả hoặc đang thi công mà bị bỏ nhiều năm không có giải pháp tháo gỡ thì đó cũng chính là lãng phí. Như vậy, đây chính là biểu hiện của lãng phí nếu nhìn dưới góc độ của nhà quản lý. Đối với hành vi tham nhũng chúng ta có thể dễ dàng xác định số tiền, tài sản thất thoát mà đối tượng chiếm đoạt cho cá nhân là bao nhiêu thì lãng phí khó định lượng chính xác.
Tuy nhiên, hậu quả mà lãng phí gây ra rất lớn, lãng phí thời gian, lãng phí tài nguyên, lãng phí của cải, vật chất và đặc biệt là lãng phí nguồn nhân lực nếu tích tụ lại sẽ làm hao hụt tài sản, ngân sách của nhà nước, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước mà sâu xa hơn nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của Nhân dân vào sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, trong đó có vai trò chỉ đạo, điều hành, quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, vai trò của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, các cơ quan tiến hành tố tụng, phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội và hơn ai hết, đó là ý thức trách nhiệm của cán bộ, công chức và Nhân dân.
(3) Tiêu cực hiểu đơn giản là những suy nghĩ, những hành vi không lành mạnh, đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức, với quy định của pháp luật. Trong phạm vi nhỏ, hẹp nó ảnh hưởng tới các mối quan hệ trong gia đình nhưng trong phạm vi lớn hơn nó sẽ ảnh hưởng tới cơ quan, tới tổ chức, thậm chí ảnh hưởng tới sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng ta đã chỉ rõ tiêu cực của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức là những hành vi trái với Điều lệ, Cương lĩnh, nghị quyết, quy chế, quy định, chỉ thị, kết luận,… của Đảng (gọi chung là chủ trương, đường lối, quy định của Đảng), pháp luật của Nhà nước, Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và các tổ chức Hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ; các chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân, cản trở quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó, biểu hiện rõ nét nhất của tiêu cực là suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị1.
Sự suy thoái về tư tưởng chính trị chính là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân. Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc2. Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) khẳng định, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm trước Đảng, trước dân.
2. Tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong giai đoạn hiện nay
Một là, về tham nhũng: trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo rất quyết liệt, mạnh mẽ của Đảng, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhiều vụ án tham nhũng lớn được phát hiện và xử lý rất nghiêm khắc, qua đó tạo niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, đồng thời được bạn bè quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên, có thể thấy hiện nay, tham nhũng vẫn còn xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, ở cả trung ương và địa phương với nhiều diễn biến phức tạp.
Qua kết quả khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng thời gian qua cho thấy, hành vi phạm tội phần lớn được thực hiện dưới hình thức đồng phạm, có tổ chức chặt chẽ, liên quan đến nhiều lĩnh vực, như: trong hoạt động đấu thầu, đấu giá tài sản và mua sắm, đầu tư công (nhất là các lĩnh vực bảo hiểm, y tế, giáo dục, tài chính, ngân hàng; trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai; trong hoạt động đăng kiểm; trong thực hiện chính sách xã hội; tham nhũng, tiêu cực liên quan đến dịch bệnh Covid-19; lợi dụng chức năng, nhiệm vụ được giao trong quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế – xã hội; trong công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát; việc cấp các loại giấy phép (khai thác khoáng sản, kinh doanh xăng dầu, kiểm dịch động, thực vật, thực phẩm; đào tạo, sát hạch lái xe…); trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, đầu tư xây dựng tại các doanh nghiệp; trong lĩnh vực hải quan, thuế; tham nhũng chính sách và lĩnh vực khác… Biểu hiện có sự cấu kết, móc nối để tạo ra lợi ích nhóm giữa chủ đầu tư với những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong bộ máy của Đảng, Nhà nước. Đáng lưu ý, tham nhũng còn xảy ra ngay trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng. Tình trạng tham nhũng “vặt” vẫn diễn ra gây bức xúc cho người dân và doanh nghiệp. Tình trạng thiếu công khai, minh bạch trong một số nội dung như quy hoạch sử dụng đất, giá đất, dự phòng ngân sách, đầu tư, mua sắm công, công tác cán bộ… vẫn còn xảy ra ở một số nơi.
Quy mô các vụ việc, vụ án tham nhũng lớn, thể hiện ở số đối tượng thực hiện hành vi và đối tượng có liên quan đông, xảy ra trong phạm vi cả nước, lượng tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát lớn. Một số đối tượng bị xử lý về hành vi tham nhũng trong các vụ án đã bị phát hiện, xử lý trong thời gian vừa qua là những cán bộ, đảng viên giữ vị trí cao trong bộ máy nhà nước, thậm chí nhiều đối tượng tại thời điểm bắt giữ đang giữ chức vụ cao trong hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương.
Trong giai đoạn 2012 – 2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 4 ủy viên Bộ Chính trị, nguyên ủy viên Bộ Chính trị; 29 ủy viên Trung ương, nguyên ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (cao hơn gấp 4 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII), trong đó có 8 ủy viên Trung ương, nguyên ủy viên Trung ương, 20 sĩ quan cấp tướng3. Tội phạm tham nhũng không chỉ xảy ra trong khu vực nhà nước mà còn xảy ra cả khu vực ngoài nhà nước với tính chất phức tạp.
Hai là, về tình hình lãng phí: thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thời gian vừa qua cho thấy lãng phí xảy ra trong một số lĩnh vực như quản lý tài chính công, đầu tư công; trong quản lý đất đai; quản lý tài sản công. Cụ thể: một số công trình được đầu tư, xây dựng với mức kinh phí rất cao tuy nhiên không đưa vào sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả. Một số dự án chậm tiến độ trong một thời gian dài mà chưa có giải pháp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, cá nhân khi thủ tục hành chính rườm rà, dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và thông suốt. Lãng phí cơ hội phát triển của địa phương, của đất nước do bộ máy nhà nước có nơi, có lúc hoạt động chưa hiệu quả, một bộ phận cán bộ nhũng nhiễu, thiếu năng lực, né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm; do chất lượng, năng suất lao động thấp. Lãng phí tài nguyên thiên nhiên; lãng phí tài sản công do quản lý, sử dụng chưa hiệu quả. Lãng phí trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, tiêu dùng của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức4.
Ba là, về tiêu cực: tình trạng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nơi, có lúc vẫn diễn biến phức tạp, biểu hiện trên các mặt. Đáng chú ý, trong giai đoạn cả nước gồng mình chống dịch Covid-19, nhiều cán bộ, đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cấp cao của một số bộ, ngành câu kết với cá nhân, doanh nghiệp, lung đoạn chính sách nhằm trục lợi, gây bức xúc, phẫn nộ trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp xã hội, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của Nhân dân. Bên cạnh những vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều bộ, ngành, lĩnh vực, địa phương thì tình trạng công chức, viên chức nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính, “tham nhũng vặt” vẫn diễn ra ở một số nơi.
Vấn đề tiêu cực trong công tác cán bộ vẫn đáng lo ngại, tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoach, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp… chậm được ngăn chặn và đẩy lùi, ảnh hưởng trực tiếp đến sự vững mạnh của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, là nguyên nhân, tiền đề của những hành vi tham nhũng, tiêu cực diễn ra tiếp theo.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên.
Muốn phòng, chống tham nhũng, lãng phí hiệu quả cần quan tâm đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ cho cán bộ, đảng viên. Về mục đích, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ, để họ ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của mình trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Gắn công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với công tác Đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, theo đó, cấp ủy, lãnh đạo các cấp cần quán triệt đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tới toàn thể cán bộ, đảng viên. Tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới.
Trong đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần thấm nhuần tư tưởng, có thái độ tôn trọng, tin tưởng, gần gũi và gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân; tạo điều kiện để Nhân dân phát huy quyền làm chủ, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Luôn nhận thức rõ đặt lợi ích quốc gia – dân tộc, lợi ích chung của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân lên trên hết, trước hết; kiên quyết, kiên trì đấu tranh với mọi hành vi gây phương hại đến lợi ích quốc gia – dân tộc, lợi ích của Đảng, Nhà nước và của Nhân dân. Quản lý, sử dụng tài sản công đúng mục đích, đúng quy định; tiết kiệm và hiệu quả; không xa hoa, lãng phí thời gian, tiền bạc, công sức và các nguồn lực vật chất khác của tập thể và cá nhân; nêu cao lòng tự trọng, danh dự, không cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, giữ gìn phẩm giá của người cán bộ, đảng viên, không để tác động lôi kéo, cám dỗ tiêu cực…
Đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp; thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu. Xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức. Phát động phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí trong các cơ quan, tổ chức, cá nhân để nó trở thành thói quen, nếp sống hằng ngày trong sinh hoạt cũng như trong công tác. Đối với cán bộ, công chức phải có ý thức sử dụng hiệu quả tài sản công, tiết kiệm thời gian, làm việc khoa học, hiệu quả, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương, quy trình công tác.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Tập trung rà soát hệ thống pháp luật, thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định hiện hành về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hoàn thiện quy định của pháp luật trong các lĩnh vực nhất là những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực để các chủ thể “không thể tham nhũng, lãng phí”, như: tài chính, ngân sách, tài sản công, đất đai, tài nguyên, đấu thầu, y tế, giáo dục, thanh tra, kiểm toán, kiểm tra, hải quan, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… Bảo đảm tính phù hợp, kịp thời, thống nhất, đồng bộ, khả thi trong quy định của pháp luật, không tạo ra “kẽ hở”, “khoảng trống” để các chủ thể có thể lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng, lãng phí nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Hoàn thiện thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực trong công tác xây dựng pháp luật để khắc phục tình trạng lồng ghép “lợi ích nhóm”, “lợi ích cục bộ” trong xây dựng pháp luật; kiểm soát quyền lực đối với nhánh thực thi quyền tư pháp để bảo đảm cho hoạt động xét xử công bằng, nghiêm minh, tránh tình trạng xét xử oan, sai cho người vô tội.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan truyền thông báo chí trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế – xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãngphí, tiêu cực. Hoàn thiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở, luật về giám sát của Nhân dân để thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật về bảo vệ người tố giác, tố cáo hành vi tham nhũng, tiêu cực qua đó phát huy tính tích cực, chủ động của người dân trong việc cùng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Thứ ba, tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc thượng tôn Hiến pháp và pháp luật là một yêu cầu rất quan trọng được đặt ra đối với mọi chủ thể trong xã hội, trong đó có cả các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Nhà nước dùng quyền lực để kiểm soát đối với xã hội song nhà nước cũng cần kiểm soát chính bản thân mình. Vấn đề này cần được nhận thức một cách đầy đủ và quán triệt thực hiện nghiêm trong toàn hệ thống chính trị. Để phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực hiệu quả cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó kiểm soát quyền lực là một trong những giải pháp hữu hiệu để phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo các cấp cần đẩy mạnh công tác kiểm soát quyền lực, trong đó tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán… và kiểm soát quyền lực từ bên ngoài đối với bộ máy nhà nước thông qua các hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội, hoạt động giám sát của cơ quan truyền thông, báo chí cũng như phát huy vai trò giám sát của Nhân dân. Trong đó, tập trung kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và có nhiều khiếu kiện kéo dài, giải quyết dứt điểm những vụ việc gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, những dự án, công trình được đầu tư, xây dựng nhiều năm nhưng không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả, gây lãng phí ngân sách nhà nước. Xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh các tổ chức, cá nhân sai phạm.
Nếu như trước đây tập trung hơn đối với công tác “chống” tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thì hiện nay phải chú trọng cả công tác “phòng ngừa” tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, để làm sao ngăn ngừa, triệt tiêu những điều kiện có khả năng phát sinh tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Điều này cần phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, phòng, chống tham nhũng, lãng phí trong cả khu vực công và khu vực tư. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phải được tổ chức triển khai một cách đồng bộ từ trung ương tới địa phương, trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ tư, tổ chức thực hiện, có hiệu quả các giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật, đồng thời, xử lý nghiêm các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí theo quy định của pháp luật như công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị (trừ trường hợp thuộc nội dung liên quan đến bí mật nhà nước); đề cao việc cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình của các chủ thể có thẩm quyền; chuyển đổi vị trí công tác nhất là những vị trí “nhạy cảm” dễ có điều kiện tham nhũng, tiêu cực; cải cách hành chính, cải cách tư pháp; ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý; đổi mới trong công tác cán bộ; thực hiện nghiêm định mức, tiêu chuẩn, chế độ; kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong các lĩnh vực, như: mua sắm, sử dụng tài sản công, đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng công sở làm việc, nhà ở công vụ, công trình phúc lợi công cộng, quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tổ chức bộ máy, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động trong khu vực nhà nước, quản lý, sử dụng tài sản, vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp, trong hoạt động sản xuất – kinh doanh và tiêu dùng của Nhân dân.
Phát hiện và xử lý nghiêm minh đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với quan điểm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, trên tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Qua đó, tạo sự răn đe để các chủ thể không dám tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Quán triệt và tổ chức thực hiện có hiệu quả kết luận của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực cũng như phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở các địa phương. Việc phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí, tiêu cực phải được tiến hành trong cả nước từ trung ương đến địa phương. Trước mắt, tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, xử lý đối với một số công trình, dự án chậm tiến độ, có nguy cơ gây thất thoát, lãng phí lớn. Điều tra, xử lý một số vụ án gây lãng phí lớn ngân sách nhà nước. Khởi tố, điều tra, xét xử dứt điểm và nghiêm minh đối với những vụ án tham nhũng, tiêu cực mà dư luận xã hội quan tâm, những vụ án Ban Chỉ đạo đưa vào diện theo dõi.
Chú thích:
1. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (2022). Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW ngày 01/8/2022 về một số nội dung về công tác phòng, chống tiêu cực.
2. Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Hà Nội, ngày 09/12/2021.
3. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. https://vtv.vn/chinh-tri/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-tai-hoi-nghi-tong-ket-10-nam-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-20220630171345807.htm
4. Chống lãng phí thông điệp mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm. https://dangcongsan.vn/tieu-diem/chong-lang-phi-thong-diep-manh-me-cua-tong-bi-thu-to-lam-681798.html
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2016). Tài liệu nghiên cứu các Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 292.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 345, 357.
4. Quốc hội (2013). Khoản 2 Điều 3 Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013.
5. Nguyễn Phú Trọng (2023). Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/09/17/van-dung-quan-diem-cua-v-i-lenin-ve-phong-chong-tham-nhung-o-viet-nam-hien-nay/
7. Nhận diện phản bác luận điệu sai trái, thù địch về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/04/29/nhan-dien-phan-bac-luan-dieu-sai-trai-thu-dich-ve-cong-tac-dau-tranh-phong-chong-tham-nhung-o-viet-nam-hien-nay/