Xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia ở Việt Nam hiện nay

TS. Bùi Trung Hiếu
Học viện An ninh nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia luôn được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện qua các thời kỳ và đạt được kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Hiện nay, lý luận về xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia vẫn còn nhiều khoảng trống cần được nghiên cứu và làm sáng tỏ, đặc biệt là nội dung xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia trong tình hình mới.

Từ khóa: Bảo vệ; an ninh quốc gia; tiềm lực an ninh quốc gia; xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia.

1. Đặt vấn đề

Xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia là công việc hệ trọng của mỗi quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến sự suy vong hay hưng thịnh của một đất nước. Từ khi xuất hiện giai cấp, đấu tranh giai cấp và Nhà nước ra đời, giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội cũng đều coi trọng xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia, chăm lo bảo vệ đất nước, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, dù là quốc gia lớn hay quốc gia nhỏ, muốn tồn tại và phát triển đều phải quan tâm xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực an ninh quốc gia để bảo vệ đất nước.

Kế thừa truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông, trong nhận thức lý luận cũng như tổ chức thực hiện, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh là một trong những nội dung quan trọng xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng. 

Tư duy về xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh của Đảng đã xuất hiện từ rất sớm. Đến Đại hội VII (năm 1991), thuật ngữ quốc phòng, an ninh đã được cụ thể hóa trong Văn kiện Đại hội Đảng: “Phát triển kinh tế – xã hội là nền tảng của quốc phòng, an ninh. Phát triển kinh tế – xã hội đi đôi với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh”1. Trải qua quá trình phát triển, tư duy về xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia ngày càng được thể hiện rõ hơn, đặc biệt tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng cũng đã xác định: “Không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững”2

Có thể thấy, xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia, luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và phát triển. Tuy nhiên, lý luận xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia nói chung và nội dung xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia nói riêng còn là vấn đề mới đang được tập trung nghiên cứu, tổng kết và làm sáng tỏ. 

2. Thực trạng xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia

Tiềm lực an ninh quốc gia là tổng thể mọi khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính, tinh thần ở trong nước và ngoài nước có thể huy động được để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Hay nói cách khác, tiềm lực an ninh quốc gia là khả năng về vật chất và tinh thần của mỗi quốc gia, dân tộc có thể huy động để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn mọi âm mưu và hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Từ lý luận về tiềm lực an ninh quốc gia cho thấy, tiềm lực an ninh quốc gia được cấu thành bởi các thành tố, như: chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, đối ngoại, quân sự, an ninh. Do đó, xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia chính là cách thức tạo nên sức mạnh tổng hợp từ các thành tố của tiềm lực an ninh quốc gia, sẵn sàng huy động sức mạnh này vào sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia khi cần thiết. Theo cách hiểu này, có thể khái quát nội dung xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia dựa trên các thành tố cấu thành cụ thể sau:

Một là, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thầnTiềm lực chính trị, tinh thần là thành tố cơ bản của tiềm lực an ninh quốc gia, chứa đựng trong tố chất con người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và trong hệ thống chính trị; là khả năng tiềm tàng về chính trị, tinh thần có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Tiềm lực chính trị, tinh thần được biểu hiện trước hết ở hệ tư tưởng, chế độ xã hội, hệ thống các chính sách đối nội, đối ngoại, hệ thống pháp lý và ở trình độ nhận thức, niềm tin, ý chí quyết tâm, trạng thái tâm lý, tình cảm, trách nhiệm của các thành viên trong xã hội trước những nhiệm vụ đặt ra. Tiềm lực chính trị, tinh thần còn là lòng tin của Nhân dân vào chế độ, sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, tinh thần, ý chí quyết tâm bảo vệ an ninh quốc gia, sự thống nhất, kỷ luật của các lực lượng chuyên trách trong bảo vệ an ninh quốc gia. 

Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần trong bảo vệ an ninh quốc gia chính là xây dựng chế độ chính trị vững mạnh dựa trên cơ sở lòng tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý vững chắc, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc hoạch định và triển khai các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trong bảo vệ an ninh quốc gia; củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh; bảo đảm an sinh xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân; tuyên truyền, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, tâm lý, tình cảm, niềm tin, thái độ, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia.

Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, trên cơ sở huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, các bộ, ban, ngành chức năng từ trung ương tới địa phương đã tập trung giáo dục, tuyên truyền, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, tự tôn dân tộc; khơi gợi, thúc đẩy tinh thần, ý chí, khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã ban hành và thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo Nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. “Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm được củng cố vững chắc”3.

Bên cạnh đó, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được quan tâm và tổ chức thực hiện nghiêm túc, góp phần xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân. Hệ thống pháp luật được bổ sung, xây dựng và dần hoàn thiện, là cơ sở pháp lý quan trọng trong đấu tranh phòng,chống tội phạm. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là phòng, chống tham nhũng đã “đạt được nhiều kết quả tích cực, rõ rệt, tạo hiệu ứng lan toả mạnh mẽ trong toàn xã hội, được nhân dân đồng tình, đánh giá cao, các tổ chức quốc tế ghi nhận” 4. Qua đó, đã từng bước khắc phục những tồn tại, hạn chế kéo dài, gây bức xúc trong dư luận, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước và đối với cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần xây dựng, củng cố, tăng cường tiềm lực an ninh quốc gia, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hai là, xây dựng tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế là khả năng về kinh tế có thể khai thác, huy động phục vụ phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh quốc gia. Trong bảo vệ an ninh quốc gia, tiềm lực kinh tế đư­ợc biểu hiện chủ yếu ở các mặt, như: lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất, khối lư­ợng của cải vật chất có thể huy động phục vụ cho quá trình bảo vệ an ninh quốc gia; tính cơ động của nền kinh tế; sức sống của nền kinh tế trước những khó khăn, thách thức. 

Xây dựng tiềm lực kinh tế hiện nay tập trung vào các nội dung, như: xây dựng nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tổ chức, triển khai đồng bộ, thống nhất việc xây dựng, phát triển kinh tế gắn với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc; đầu tư phát triển và nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế; xây dựng, phát triển công nghiệp an ninh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới, từng bước hòa nhập công nghiệp an ninh vào công nghiệp quốc gia; đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp an ninh tiên tiến, tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp an ninh lưỡng dụng công nghệ cao, tự chủ; hợp tác thương mại về an ninh; đấu tranh phòng, chống tội phạm về kinh tế.

Xây dựng tiềm lực kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia. Nhận thức rõ vấn đề này, thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo trong phát triển kinh tế và xây dựng, phát triển kinh tế gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng, tạo cơ sở xây dựng tiềm lực kinh tế vững chắc. Sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý, thúc đẩy việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, quan tâm chỉ đạo phát triển công nghiệp an ninh theo hướng hiện đại, lưỡng dụng phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và phát triển kinh tế – xã hội: “Tiếp tục phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ khoa học, công nghệ cao” 5. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về kinh tế đạt được kết quả tích cực, tội phạm tham nhũng, kinh tế được kiểm soát và đẩy lùi. Nền kinh tế của đất nước đang ngày càng vững mạnh, từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm huy động các nguồn lực phục vụ cho an ninh, quốc phòng: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện”6.

Ba là, xây dựng tiềm lực văn hóa, xã hội. Tiềm lực văn hóa, xã hội là khả năng về văn hóa, xã hội có thể huy động, quy tụ thành sức mạnh tinh thần để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Xây dựng tiềm lực văn hóa, xã hội nhằm hướng tới xây dựng con người có trí tuệ cao, tâm hồn trong sáng, đạo đức lành mạnh, lối sống văn minh, sức khỏe cường tráng; giữ gìn và phát huy thuần phong mỹ tục của nền văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa, văn hóa của nhân loại, đặc biệt là phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết toàn dân trong thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia; phòng ngừa, ngăn chặn sự xâm lăng văn hóa từ bên ngoài, các khuynh hướng văn hóa trái với thuần phong, mỹ tục Việt Nam; gắn kết chặt chẽ và thấm sâu văn hóa an ninh vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng trong bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng và phát huy giá trị nghệ thuật bảo vệ an ninh quốc gia; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.

Văn hóa, xã hội là một trong những lĩnh vực đặc biệt quan trọng, là sức mạnh nội sinh to lớn có thể huy động vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm đến phát triển văn hóa, xã hội, coi phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, chính sách, pháp luật về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam ngày càng được chú ý, quan tâm đầu tư. 

Sản phẩm văn hóa, nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả thiết thực, tạo ra môi trường tốt để nuôi dưỡng, phát huy những giá trị nhân văn, nhân ái của dân tộc, lôi kéo, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia công tác bảo vệ an ninh, trật tự. Bên cạnh đó, an sinh xã hội cũng được quan tâm và bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được nâng lên. Các chính sách người có công với cách mạng, bảo trợ xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững được đặc biệt quan tâm, “tỷ lệ hộ nghèo năm 2023 giảm còn 2,93% so với hơn 58% năm 1993. Việt Nam được thế giới ghi nhận, đánh giá cao và coi là hình mẫu thành công về xóa đói, giảm nghèo của các nước đang phát triển trong suốt 30 năm qua”7

Bốn là, xây dựng tiềm lực khoa học – công nghệ. Tiềm lực khoa học – công nghệ là khả năng về khoa học, công nghệ của quốc gia có thể khai thác, huy động để phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Tiềm lực khoa học – công nghệ là thành tố có vai trò ngày càng quan trọng trong tiềm lực an ninh quốc gia, tác động trực tiếp, sâu sắc đến hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Xây dựng tiềm lực khoa học – công nghệ bảo vệ an ninh quốc gia là xây dựng đội ngũ cán bộ, nhà khoa học và nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nghiên cứu, phát triển khoa học – công nghệ phục vụ cho các dự án then chốt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đầu tư ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ để phát triển sản xuất; phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh; tạo lập thị trường khoa học – công nghệ, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo khoa học – công nghệ; thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học – công nghệ cho Nhân dân; động viên, khuyến khích các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ hàng đầu tham gia nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch, tội phạm triệt để lợi dụng các thành tựu khoa học – công nghệ vào các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, việc xây dựng, củng cố, tăng cường tiềm lực khoa học – công nghệ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đại hội XIII của Đảng xác định:“Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”8. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, sự phối hợp của các cơ quan, ban, ngành, xây dựng tiềm lực khoa học – công nghệ thời gian qua đã đạt được những kết quả tích cực, từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. 

Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ được nâng cao, sẵn sàng phục vụ cho nhiệm vụ an ninh, quốc phòng. Khoa học – công nghệ đã góp phần thiết kế, chế tạo, cải tiến, ứng dụng được nhiều loại vũ khí, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật, phần mềm công nghệ cao; xây dựng được các hệ thống giám sát và kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng… góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Năm là, xây dựng tiềm lực đối ngoại. Hoạt động đối ngoại đã và đang đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ an ninh quốc gia từ sớm, từ xa. Xây dựng tiềm lực đối ngoại trong tình hình hiện nay cần hướng đến các vấn đề, như: xây dựng, hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài vào bảo vệ an ninh quốc gia; xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động đối ngoại; xây dựng lực lượng đối ngoại chuyên trách trong bảo vệ an ninh quốc gia vững mạnh về mọi mặt; thiết lập quan hệ, xây dựng lòng tin chiến lược với các nước đối tác và cộng đồng quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; xây dựng nền ngoại giao hiện đại, trong đó chú trọng đẩy mạnh ngoại giao quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; phối hợp, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về công tác đối ngoại, ngoại giao, nước ta đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, từ phá thế bị bao vây, cấm vận, tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; tạo dựng được môi trường quốc tế thuận lợi và huy động được các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao tiềm lực an ninh quốc gia. Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ với các nước, tham gia nhiều tổ chức quốc tế, ký kết nhiều hiệp định thương mại, tạo môi trường hòa bình, ổn định; đồng thời, khẳng định được vị thế, uy tín của quốc gia, điển hình như Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021, Chủ tịch ASEAN năm 2020; thiết lập quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; là nước duy nhất trong ASEAN có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với cả năm nước thành viên Thường trực (P5) của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; là thành viên đầy đủ, tích cực của trên 70 tổ chức quốc tế, có quan hệ với hơn 500 tổ chức Phi chính phủ trên thế giới9. Những kết quả và thành tích nói trên đã được Đại hội XIII của Đảng khẳng định rõ: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”10.

Sáu là, xây dựng tiềm lực quân sự, an ninhTiềm lực quân sự, an ninh là khả năng về sức mạnh chiến đấu của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và khả năng huy động nhân lực, vật lực phục vụ nhiệm vụ quốc phòng – an ninh. Tiềm lực quân sự, an ninh là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sự tồn tại và phát triển bền vững của đất nước, là sức mạnh tổng hợp của quốc gia, được thể hiện chủ yếu qua sức mạnh của lực lượng vũ trang. Tiềm lực quân sự, an ninh được biểu hiện ở khả năng duy trì, hoàn thiện và không ngừng phát triển năng lực, trình độ sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang; ở nguồn dự trữ về sức người, sức của, khả năng của vũ khí, trang bị phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng – an ninh. 

Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh trong điều kiện mới đòi hỏi phải gắn với việc xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học – công nghệ, đối ngoại, coi đó là yêu cầu tất yếu trong xây dựng tiềm lực của nền an ninh nhân dân, bảo đảm khả năng huy động tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh quốc gia. Xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự, an ninh trong chiến lược và chính sách phát triển các ngành kinh tế trọng điểm; phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh có trọng tâm, trọng điểm theo hướng tập trung, chuyên sâu, bố trí hợp lý trên các địa bàn gắn với các kho dự trữ, dự phòng chiến đấu; giải quyết tốt các vấn đề chiến lược liên quan đến quốc phòng – an ninh, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; xử lý tốt quan hệ quốc phòng, an ninh với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, tạo thế đan xen chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; tích cực, chủ động củng cố tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế, thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng, an ninh; xây dựng lực lượng vũ trang “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tổ chức bộ máy được điều chỉnh theo hướng tinh gọn, mạnh, hoạt động linh hoạt, hiệu lực, hiệu quả”11; xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân trong phạm vi cả nước và trên các địa bàn, lĩnh vực trọng yếu về quốc phòng – an ninh.

Thời gian qua, tiềm lực quân sự, an ninh được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, đang từng bước xây dựng, củng cố và tăng cường. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Tiềm lực quốc phòng, an ninh ngày càng được nâng cao, an ninh chính trị được giữ vững. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được củng cố ngày càng vững chắc, góp phần bảo vệ biên giới và chủ quyền quốc gia, ổn định chính trị, xây dựng “thế trận lòng dân” tại các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo”12. Bên cạnh đó, Bộ Công an và Bộ Quốc phòng đã tích cực triển khai thực hiện đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, gắn với tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, tạo điều kiện lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, khoa học hơn; Bộ Quốc phòng đã điều chỉnh trên 2.700 tổ chức, ưu tiên dành nguồn lực cho các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại, bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng Lục quân theo lộ trình13. Cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an và Quân đội đã cơ bản đồng bộ, hợp lý góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đủ khả năng xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ: “Trước tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chúng ta đã coi trọng củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, chủ động xử lý thành công các tình huống, không để bị động, bất ngờ”14.

3. Một số nội dung cần tập trung trong xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia

Bối cảnh tình hình chính trị – an ninh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn, nhất là tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng đa dạng, khó nhận diện, khó kiểm soát. Quá trình toàn cầu hóa cùng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến bảo vệ an ninh quốc gia. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia đứng trước những khó khăn, thách thức ngày càng lớn. Để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia trong tình hình mới, đòi hỏi phải tập trung xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực an ninh quốc gia nhằm huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp, khả năng về vật chất và tinh thần tiềm tàng cũng như hiện hữu phục vụ bảo vệ an ninh quốc gia khi cần thiết. Do vậy, cần tập trung vào các vấn đề, như: 

(1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là trong xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực an ninh quốc gia. 

(2) Đẩy mạnh xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, kết hợp chặt chẽ với nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận lòng dân vững chắc, nhanh chóng hình thành thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng; thiết lập thế trận an ninh liên hoàn. 

(3) Xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

(4) Tăng cường phương tiện, trang thiết bị, ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ số, tự động hoá, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo cho lực lượng Công an nhân dân; hình thành các trung tâm dữ liệu lớn về an ninh, trật tự; trung tâm thông tin chỉ huy vùng, miền; hệ thống giám sát thông tin tại các vùng duyên hải, hải đảo, biên giới, vùng sâu, vùng xa bảo đảm kết nối, liên thông, đồng bộ. 

(5) Xây dựng, phát triển công nghiệp an ninh theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, chuyên dụng, tập trung, chuyên sâu, có trọng tâm, trọng điểm, bố trí hợp lý trên các địa bàn gắn với các kho dự trữ, dự phòng chiến đấu; có cơ chế, chính sách thúc đẩy hợp tác, chuyển giao công nghệ giữa công nghiệp an ninh với quốc phòng và công nghiệp dân sinh. 

(6) Tiếp tục nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là lý luận về tiềm lực an ninh quốc gia và xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia.

4. Kết luận

Xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia ở Việt Nam là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, góp phần củng cố, tăng cường sức mạnh của quốc gia, dân tộc trong bảo vệ và phát triển đất nước. Xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia luôn được Đảng, Nhà nước và các cấp, các ngành quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới. Bài viết khái quát những nội dung cơ bản và kết quả đạt được trong xây dựng tiềm lực an ninh quốc gia ở Việt Nam thời gian qua; đồng thời, đề xuất một số nội dung góp phần nâng cao hiệu quả xây dựng, củng cố và tăng cường tiềm lực an ninh quốc gia trong thời gian tới.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. H. NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 142 – 143.
2, 3, 6, 8, 10. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 109, 68, 59. 140, 25, 22.
4, 5, 11, 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 54, 151, 55, 55
7. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.https://baochinhphu.vn/dat-nuoc-ta-chua-bao-gio-co-duoc-co-do-tiem-luc-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-nhu-ngay-nay-10224072719213366.htm
9. Tô Lâm (2021). Những điểm mới về an ninh quốc gia trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 34.
13. Nguyễn Tân Cương (2024). Tiếp tục đột phá xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 6/2024.