ThS. Chu Thị Bình
Trường Đại học Xây dựng Hà Nội
(Quanlynhanuoc.vn) – Phương pháp thuyết trình là phương pháp được sử dụng phổ biến trong dạy học, trong đó người dạy sử dụng lời nói để trình bày, giải thích, làm sáng tỏ nội dung của bài học, qua đó truyền thụ kiến thức, kỹ năng cho người học. Bài viết phân tích thực trạng sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy môn Tiếng Anh tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp này trong giảng dạy ngoại ngữ.
Từ khóa: Phương pháp thuyết trình; giảng dạy tiếng Anh; Trường Đại học Xây dựng Hà Nội.
1. Đặt vấn đề
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã đưa ra quan điểm chỉ đạo: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học…”. Theo đó, đổi mới phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu cần thiết để đổi mới giáo dục, đào tạo. Đặc biệt, đối với việc dạy học tiếng Anh, sự đổi mới các phương pháp giảng dạy ngày càng trở nên cần thiết bởi tính đặc thù của ngôn ngữ, góp phần nâng cao hiệu quả trang bị những kỹ năng sử dụng tiếng Anh, qua đó thúc đẩy chuyển giao khoa học -công nghệ, học hỏi những thành tựu khoa học mới.
Trong các phương pháp giảng dạy tiếng Anh, phương pháp thuyết trình là một phương pháp được sử dụng phổ biến và là phương pháp mang tính chất truyền thống. Sử dụng tốt phương pháp thuyết trình trong giảng dạy các học phần tiếng Anh sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, góp phần hình thành những người lao động năng động, hội nhập trong tương lai. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được hết những ưu điểm và hạn chế những khuyết điểm của phương pháp. Qua nghiên cứu thực tế, giảng dạy các học phần tiếng Anh tại trường Đại học Xây dựng Hà Nội, bài viết đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng của phương pháp thuyết trình trong giảng dạy môn tiếng Anh.
2. Thực trạng sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy tiếng Anh tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội
Phương pháp thuyết trình được sử dụng thành công khi giảng viên thực hiện được đầy đủ các bước thuyết trình (đặt vấn đề – giải quyết vấn đề – kết thúc vấn đề), kết hợp được các “thủ thuật” về lời nói, ngôn ngữ cơ thể, sơ đồ tư duy… Bên cạnh đó, trong quá trình giảng dạy việc giảng viên kết hợp khéo léo phương pháp thuyết trình với các phương pháp khác, như: đàm thoại, thảo luận nhóm… cũng sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, phong thái của giảng viên trong quá trình giảng dạy cũng là yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành công khi sử dụng phương pháp này, điều này được thể hiện thông qua kiến thức, sự liên hệ và dẫn dắt linh hoạt, đa dạng của giảng viên trong quá trình đặt vấn đề, giải quyết vấn đề một cách logic, hấp dẫn. Việc đánh giá thực trạng sử dụng phương pháp thuyết trình được dựa trên những nội dung cụ thể này khi thực hiện phương pháp.
Để làm rõ thực trạng sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy tiếng Anh tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, tác giả sử dụng phương pháp điều tra xã hội học thông qua bảng hỏi đối với 150 sinh viên K68, là khóa sinh viên đã và đang học các học phần tiếng Anh. Bảng hỏi được thiết kế bảo đảm tính khoa học, tính logic và tính khách quan. Thời gian thực hiện khảo sát từ tháng 8/2024 – 9/2024. Kết quả khảo sát, đánh giá mức độ sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên trường Đại học Xây dựng Hà Nội được thể hiện trong Bảng 1 như sau:
Bảng 1: Đánh giá mức độ sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy tiếng Anh cho sinh viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội.
TT | Nội dung | Mức độ | |||
Rất tốt | Tốt | Bình thường | Chưa tốt | ||
1 | Người dạy sử dụng đầy đủ các bước thuyết trình (Đặt vấn đề – Giải quyết vấn đề – Kết thúc vấn đề) để làm sáng tỏ vấn đề | 87(58%) | 45 (30%) | 18(12%) | 0(0%) |
2 | Người dạy có sự chuẩn bị chu đáo cho bài giảng | 91(60.7%) | 43(28.7%) | 16(10.6%) | 0(0%) |
3 | Mức độ về sử dụng các “thủ thuật” thuyết trình của người dạy:- Lời giảng rõ ràng, ngắn gọn, truyền cảm- Phát âm – Ngôn ngữ cơ thể (ánh mắt, biểu cảm, cử chỉ, trang phục, tác phong)- Sơ đồ tư duy | 53(35.3%) | 47(31.3%) | 41(27.4%) | 9(6%) |
4 | Mức độ sử dụng kết hợp với các phương pháp khác:- Đàm thoại- Thảo luận nhóm- Trò chơi- Khác | 92(61.3%) | 32(21.3%) | 21(14%) | 5(3.4%) |
5 | Mức độ sử dụng kết hợp với các phương tiện dạy học (máy chiếu, bảng, tài liệu, giáo trình, băng đĩa, video…) của người dạy | 98(65.3%) | 31(20.7%) | 21(14%) | 0(0%) |
6 | Phong thái của người dạy khi sử dụng phương pháp thuyết trình:- Kiến thức đa dạng- Liên hệ thực tế- Dẫn dắt linh hoạt | 63(42%) | 39(26%) | 48(32%) | 0(0%) |
Kết quả khảo sát ở các nội dung về sử dụng đầy đủ các bước trong phương pháp thuyết trình, sự chuẩn bị bài giảng của giảng viên, kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương tiện dạy học khác (máy chiếu, bảng, tài liệu, video, băng đĩa…) hay nội dung về phong thái của giảng viên như kiến thức, liên hệ, dẫn dắt… đều được các sinh viên tham gia khảo sát đánh giá cao với 3 mức độ “rất tốt”, “tốt” và “bình thường”; không có sinh viên nào đánh giá ở mức độ “chưa tốt”. Trong đó, đánh giá ở mức “rất tốt” lần lượt theo thứ tự trên là: 58%, 60.7%, 65.3% và 42%, ở mức “tốt” lần lượt là: 30%, 28.7%, 20.7% và 26%, ở mức “bình thường” lần lượt là: 12%, 10.6%, 14% và 32%. Qua đó cho thấy, việc sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy các học phần tiếng Anh tại Trường Đại học Xây dựng Hà Nội đã được các giảng viên đầu tư với các bài giảng có sự chuẩn bị chu đáo, phương pháp thuyết trình được các giảng viên nắm vững và thực hiện mang lại hiệu quả nhất định, trong quá trình áp dụng phương pháp này các giảng viên cũng đã có sự kết hợp với các phương tiện dạy học mà nhà trường trang bị và các giảng viên tự chuẩn bị, ngoài ra, các giảng viên cũng đều bảo đảm về mặt kiến thức cũng như phong thái dẫn dắt, sự liên hệ thực tế.
Mặc dù không có đánh giá nào ở mức “chưa tốt” song các kết quả khảo sát từ thực tế cho thấy việc áp dụng các bước của phương pháp thuyết trình từ đặt vấn đề, giải quyết vấn đề và kết thúc vấn đề cũng chưa kích thích được sự lắng nghe, tò mò từ phía sinh viên thể hiện ở số lượng sinh viên đánh giá ở mức “bình thường” còn cao (12%). Về phong thái giảng viên, đã đạt yêu cầu về mặt trình độ (100% giảng viên giảng dạy các học phần tiếng Anh đều có trình độ từ thạc sĩ trở lên) nhưng vẫn chưa bảo đảm sự đa dạng về mặt kiến thức, sự năng động trong việc liên hệ thực tế, sự mềm dẻo, linh hoạt trong dẫn dắt bài giảng… thể hiện ở số sinh viên đánh giá ở mức “rất tốt” chỉ chiếm 42%, trong khi đó, số sinh viên được hỏi đánh giá ở mức “bình thường” chiếm tới 32%. Điều này làm cho việc sử dụng phương pháp thuyết trình chưa gây được ấn tượng mạnh, chưa khiến tác động lớn đến việc kích thích sự ghi nhớ, nắm bắt ngôn ngữ, các dạng cấu trúc câu, các kiểu câu… Bên cạnh đó, việc sử dụng kết hợp với các phương tiện dạy học khi thực hiện phương pháp thuyết trình cũng chưa đem lại hiệu quả cao thể hiện ở 14% số sinh viên được hỏi đánh giá ở mức “bình thường” trong nội dung này. Về nội dung về sự chuẩn bị của giảng viên còn thiếu sự kết nối và thực sự lôi cuốn người học, với 10.6% học sinh đánh giá ở mức “bình thường”; trong khi chỉ có 60.7% sinh viên tham gia khảo sát đánh giá ở mức “rất tốt”.
Đặc biệt, kết quả khảo sát cho thấy ở 2 nội dung về: việc sử dụng các “thủ thuật” trong phương pháp thuyết trình và sự kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương pháp khác còn chưa phát huy được hết những ưu điểm của phương pháp thuyết trình. Cụ thể, số sinh viên đánh giá hai nội dung này ở mức “chưa tốt” lần lượt là 6% và 3.4%, trong khi số sinh viên tham gia khảo sát đánh gia ở mức “rất tốt” cũng chưa cao là 35.3% và 61.3%. Điều này cho thấy, các giảng viên tham gia giảng dạy các học phần tiếng Anh chưa thực sự chú ý đến việc khai thác các “thủ thuật” trong phương pháp thuyết trình như lời nói, ngôn ngữ cơ thể, sơ đồ tư duy…, trong khi những yếu tố này góp phần rất lớn trong việc giảng dạy ngôn ngữ. Bên cạnh đó, việc kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương pháp khác như đàm thoại, thảo luận nhóm, trò chơi… làm cho giờ học vừa trở nên năng động, lôi cuốn, vừa giúp sinh viên thực hành các kỹ năng nghe, nói, sử dụng ngôn ngữ tốt hơn nhưng lại chưa được sử dụng một cách hiệu quả.
3. Hạn chế và nguyên nhân
Trên cơ sở khảo sát thực trạng sử dụng phương pháp thuyết trình trong giảng dạy các học phần tiếng Anh sinh viên trường Đại học Xây dựng Hà Nội, tác giả nhận định còn một số hạn chế, như: (1) Việc sử dụng các “thủ thuật” trong phương pháp thuyết trình vẫn chưa được khai thác để phát huy hiệu quả đối với việc giảng dạy ngôn ngữ; (2) Việc kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương pháp khác chưa bảo đảm được sự linh hoạt, năng động để người học rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ, giảng viên đôi khi chưa có sự khéo léo trong dẫn dắt, liên hệ… để tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn khi sử dụng phương pháp này; (3) Việc sử dụng các bước của quá trình diễn giảng cũng chưa thực sự phát huy được những ưu điểm của phương pháp, sự chuẩn bị bài giảng của giảng viên chưa nhắm đúng vào trọng tâm và tâm lý của người học nên chưa tạo ra những bài giảng thú vị, thu hút.
Thực trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
Một là, một số giảng viên vẫn chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt kiến thức, chưa có sự phân tích tâm lý của người học nên chưa có những cách vận dụng khéo léo các bước thuyết trình một cách hợp lý;
Hai là, còn tâm lý cho rằng việc dạy học chỉ cần truyền đạt đủ và đúng nội dung kiến thức bài học là đủ nên chưa có sự chú ý đến phong thái, chưa thực sự quan tâm trau dồi những yếu tố, như: lời nói, tác phong, trang phục, ánh mắt, cử chỉ… trong quá trình thuyết trình; chưa tạo ra được môi trường để sinh viên dễ dàng trao đổi, đưa ra ý kiến cá nhân, phát huy khả năng sáng tạo, kỹ năng giao tiếp… để tạo cơ hội cho người học rèn luyện các kỹ năng;
Ba là, thiếu sự linh hoạt, năng động trong việc kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương pháp khác cũng như kết hợp với các phương tiện dạy học để hỗ trợ nâng cao hiệu quả của việc diễn giảng;
Bốn là, thiếu việc tiếp nhận, lắng nghe những phản hồi từ phía người học để có những đánh giá khách quan, rút kinh nghiệm cho việc sử dụng phương pháp thuyết trình một cách tốt nhất.
4. Một số giải pháp
Thứ nhất, chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt kiến thức, kỹ năng.
Trước khi giảng dạy một vấn đề, một nội dung nhất định, giảng viên có thể xây dựng một “kịch bản” với đầy đủ các bước thuyết trình: đặt vấn đề – giải quyết vấn đề – kết thúc vấn đề nhằm tạo ra sự lôi cuốn cho bài giảng.
Việc đặt vấn đề giữ vai trò rất quan trọng nên cần phải bảo đảm vừa tạo ra sự hấp dẫn ngay từ đầu của bài học, vừa giúp sinh viên xác định được trọng tâm bài học. Người dạy có thể xem xét việc đặt vấn đề một cách linh hoạt với tùy từng nội dung, như: sử dụng câu hỏi gợi mở, sử dụng các tình huống thực tế liên quan đến cấu trúc, ngôn ngữ, hoàn cảnh… để sinh viên thấy được ngữ cảnh sử dụng ngôn ngữ và dễ dàng kích thích sự ghi nhớ của sinh viên.
Giải quyết vấn đề là bước quyết định nhất đến hiệu quả của phương pháp thuyết trình, giảng viên cần bảo đảm sự kết hợp một cách khéo léo, linh hoạt các phương pháp khác nhau, như: vấn đáp, nêu vấn đề, thảo luận… và kết hợp với các phương tiện hỗ trợ giảng dạy (tài liệu, giáo trình, video) để làm cho việc tiếp cận và nắm bắt vấn đề ngôn ngữ của sinh viên được phong phú, đa dạng. Đặc biệt, khi giải quyết vấn đề, kỹ năng phân tích cần được sử dụng một cách triệt để nhằm làm rõ vấn đề ngôn ngữ (cách sử dụng, từ loại…) Ngoài ra, ở bước này, giảng viên cũng cần chú ý đến các ví dụ minh họa phù hợp với lứa tuổi của sinh viên để tăng tính hấp dẫn cho bài giảng, đồng thời giúp sinh viên biết cách vận dụng kiến thức về tiếng Anh trong cuộc sống.
Việc kết thúc vấn đề có thể được diễn ra theo nhiều cách, như: tóm lược kiến thức, kết thúc bằng câu hỏi, kết thúc bằng cách mở ra một vấn đề khác gợi sự tò mò của sinh viên, kết thúc bằng các câu hỏi trắc nghiệm… Khi giảng viên có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài giảng với các “kịch bản” được lập kế hoạch thì phương pháp thuyết trình sẽ phát huy được những ưu điểm, đồng thời hạn chế được những khuyết điểm vốn có.
Thứ hai, tạo môi trường “mở” để sinh viên có thể phát huy được hết các khả năng của bản thân.
Khi sử dụng phương pháp thuyết trình trong dạy học tiếng Anh, giảng viên nên chủ động tạo ra không khí sôi nổi, tạo ra môi trường, hoàn cảnh để người học phát huy kỹ năng nghe, nói, đọc, viết và tự tin thể hiện bản thân. Sự nhiệt huyết, lời nói, cách gợi vấn đề, phong thái, sự truyển cảm… của giảng viên sẽ góp phần tạo ra sự cởi mở trong giờ học, tạo cảm giác thoải mái, kích thích sự suy nghĩ, tìm tòi, “bứt phá” từ người học, qua đó hình thành lớp học “không khoảng cách” và biến những kiến thức về ngôn ngữ Anh trở nên gần gũi, thực tế hơn. Ngoài ra, giảng viên cũng cần có sự tinh tế, nhạy cảm trong việc nắm bắt tâm lý sinh viên; sử dụng những từ ngữ thể hiện gần gũi, hòa nhập với lứa tuổi của sinh viên nhằm tăng sự tương tác giữa giảng viên và sinh viên, tạo ra sự tự nhiên cho bài học, đồng thời tạo ra sự thu hút, chú ý từ phía sinh viên.
Thứ ba, chú ý tận dụng hiệu quả các “thủ thuật” của phương pháp thuyết trình.
Trước hết, cần tập trung vào lời nói, ngôn ngữ cơ thể. Lời nói là yếu tố không thể không có trong bất kỳ phương pháp sư phạm nào, đặc biệt là thuyết trình. Đối với tiếng Anh, lời nói cần bảo đảm các yếu tố: chính xác về phát âm, rõ ràng, truyền cảm, bảo đảm ngữ điệu, tránh lan man hoặc quá phô trương. Điều này đòi hỏi giảng viên tiếng Anh phải trau dồi vốn từ một cách phong phú, đa dạng. Bên cạnh đó, việc diễn giảng trong phương pháp thuyết trình trong dạy học tiếng Anh cần bảo đảm tính truyền cảm, sự năng động của ngôn ngữ, những yếu tố này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lý, sự ham muốn học tập của sinh viên. Ngữ điệu khi thuyết trình cần phù hợp, khi trầm, khi bổng, có điểm nhấn, âm lượng hợp lý. Lời giảng hay, ngắt nghỉ hợp lý, ngữ điệu uyển chuyển khi giảng các học phần tiếng Anh không chỉ tạo ra sự lôi cuốn cho bài học mà còn khiến cho sinh viên tiếp nhận ngôn ngữ một cách đơn giản, tự nhiên, dễ dàng hơn. Thông qua lời giảng và ngữ điệu cũng thể hiện trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sự tâm huyết của giảng viên tiếng Anh.
Bên cạnh đó, ngôn ngữ cơ thể cũng là một “thủ thuật” quan trọng, một yếu tố hỗ trợ cho sự thành công của phương pháp này. Ngôn ngữ cơ thể bao gồm: cử chỉ, ánh mắt, nụ cười, biểu cảm khuôn mặt, điệu bộ cơ thể, tác phong… Đó là hệ thống các tín hiệu đặc biệt được tạo thành từ các thao tác, chuyển động của các bộ phận trên cơ thể. Khi giảng dạy tiếng Anh, giảng viên cần chú ý giao tiếp bằng ánh mắt với sinh viên để nắm bắt mức độ tập trung của người học cũng như tạo ra sự “cởi mở” trong lớp học. Biểu cảm trên khuôn mặt của giảng viên cần có sự linh hoạt tùy thuộc vào từng vấn đề, hoàn cảnh được đề cập nhằm giúp người học hình dung, tưởng tượng được ngữ cảnh. Đồng thời, tác phong của giảng viên cần bảo đảm sự nhanh nhẹn và kết hợp nhịp nhàng với lời nói để hỗ trợ cho lời nói thêm lôi cuốn. Thêm vào đó, giảng viên không nên chỉ ngồi hoặc đứng một chỗ mà cần có sự di chuyển hợp lý trong lớp học. Cùng với ánh mắt, cử chỉ, biểu cảm, tác phong, trang phục của giảng viên cũng cần thể hiện được sự thân thiện, gần gũi, tránh những trang phục lòe loẹt, tránh đeo nhiều trang sức, trang điểm quá đậm dễ khiến sinh viên mất tập trung. Một trong những “thủ thuật” hỗ trợ rất hiệu quả cho phương pháp thuyết trình đó là kết hợp sử dụng sơ đồ tư duy trong diễn giảng. Việc sử dụng sơ đồ tư duy sẽ giúp cho sinh viên hệ thống hóa kiến một cách ngắn gọn, dễ hiểu và logic, đồng thời tạo ra sự chủ động ghi nhớ từ mới, cấu trúc câu hay các trường hợp ngôn ngữ đặc biệt.
Thứ tư, tăng cường tính linh hoạt, chủ động trong việc kết hợp phương pháp thuyết trình với các phương pháp giảng dạy khác và các phương tiện hỗ trợ dạy học trong dạy học tiếng Anh.
Các phương pháp khác, như: thảo luận nhóm, đàm thoại… giúp cho sinh viên rèn luyện được sự tự tin, chủ động trong sử dụng tiếng Anh với các kỹ năng khác nhau. Các phương pháp này đều có tác dụng kích thích sự chủ động tích cực của sinh viên, làm cho họ hòa nhập vào bài học và phát huy được các khả năng sáng tạo của từng cá nhân và tập thể trong việc học ngoại ngữ. Kết hợp các phương pháp một cách linh hoạt cùng phương pháp thuyết trình sẽ tạo ra môi trường học tập sôi nổi, hâm nóng không khí của lớp học, gia tăng sự tương tác giữa thầy – trò và trò – trò. Ngoài ra, khai thác các phương tiện hỗ trợ dạy học như video, tài liệu… cũng là những cách thức làm cho việc minh họa từ mới, cấu trúc câu… trở nên trực quan, dễ ghi nhớ hơn.
Thứ năm, cần lắng nghe những ý kiến phản hồi từ phía sinh viên để có những điều chỉnh hợp lý trong việc sử dụng phương pháp thuyết trình khi giảng dạy các học phần tiếng Anh. Sinh viên là đối tượng tiếp nhận sự truyền đạt kiến thức từ giảng viên, do đó sự đánh giá của sinh viên mang tính khách quan và chính xác nhất về hiệu quả của việc giảng dạy. Những phản ứng của sinh viên trong quá trình nghe giảng thể hiện qua sự tập trung, chăm chú lắng nghe, sự hào hứng khi tham gia các hoạt động trong giờ học… là những phản hồi trực tiếp cho việc giảng dạy. Từ những biểu hiện đó, giảng viên có thể tự điều chỉnh lời nói, cử chỉ, phong thái… để gây sự chú ý, quan tâm của sinh viên. Bên cạnh đó, giảng viên cũng có thể lấy ý kiến phản hồi của sinh viên thông qua phiếu hỏi hoặc những cách thức khác để nắm bắt được tâm lý, nguyện vọng hoặc những phần kiến thức, những yếu tố còn hạn chế trong việc sử dụng phương pháp, để từ đó có những điều chỉnh thích hợp.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Thái Bảo (2011). Sử dụng phương pháp thuyết trình theo hướng phát huy tính tích cực của học viên trong giảng dạy các môn khoa học xã hội và nhân văn. Tạp chí Giáo dục số 253.
3. Nguyễn Thị Thu Hiền (2018). Nghiên cứu hiệu quả của phương pháp thuyết trình nhóm tới khả năng nói tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất tại học viện quân y. Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, tập 34, số 3.
4. Thái Duy Tuyên (2010). Phương pháp dạy học truyền thống và đổi mới. H. NXB Giáo dục Việt Nam.
5. Harmer, J. (2000). How to Teach English. London: Foreign Language Teaching and Research Press.
6. William E. Cashin (2010). Effective Lecturing. The IDEA Center Manhattan, Kansas State University.