ThS. Nguyễn Ngọc Anh, Kim Thanh
Trường Đại học Thương mại
(Quanlynhanuoc.vn) – Khởi nghiệp xanh đang trở thành một xu hướng tất yếu trong bối cảnh phát triển bền vững và chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Tại Việt Nam, khởi nghiệp xanh không chỉ góp phần giải quyết các vấn đề môi trường mà còn tạo ra giá trị kinh tế và xã hội mới phù hợp với mục tiêu phát triển dài hạn. Bài viết tập trung phân tích vai trò của Nhà nước trong hệ sinh thái khởi nghiệp xanh, qua các công cụ chính sách, như: tài chính, thuế, hỗ trợ hạ tầng, pháp lý, đào tạo và hợp tác công – tư. Trên cơ sở đó, tổng hợp lý luận và thực tiễn để đánh giá thực trạng chính sách hỗ trợ; đồng thời, chỉ ra những thành tựu, hạn chế. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện khung thể chế để tăng cường hỗ trợ toàn diện và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp khởi nghiệp xanh trong giai đoạn tới.
Từ khóa: Khởi nghiệp xanh; doanh nghiệp xanh; chính sách hỗ trợ; vai trò của Nhà nước; hệ sinh thái khởi nghiệp.
1. Đặt vấn đề
Trong những thập niên gần đây, biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên và ô nhiễm môi trường đã trở thành những thách thức toàn cầu nghiêm trọng, đòi hỏi các quốc gia phải chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Theo Báo cáo của Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP, 2021), mô hình kinh tế xanh có thể tạo ra tới 24 triệu việc làm mới trên toàn cầu vào năm 20301; đồng thời, giảm đáng kể lượng khí thải nhà kính khi được triển khai đồng bộ. Trong bối cảnh đó, khởi nghiệp xanh (green entrepreneurship) nổi lên như một hướng đi mang tính chiến lược, kết hợp giữa đổi mới sáng tạo, hiệu quả kinh tế và cam kết môi trường góp phần hình thành một mô hình phát triển toàn diện và bao trùm.
Tại Việt Nam, định hướng phát triển kinh tế xanh đã được xác định rõ trong Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050. Theo đó, Việt Nam đặt mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính 43,5% vào năm 20302. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, khởi nghiệp xanh được xem là một lực lượng then chốt trong việc tạo ra các giải pháp đổi mới sáng tạo thân thiện môi trường, đặc biệt, trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn tài nguyên và công nghệ sạch. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hệ sinh thái hỗ trợ khởi nghiệp nói chung và khởi nghiệp xanh nói riêng thường phải đối mặt với chi phí đầu tư lớn và chủ yếu còn phụ thuộc vào các yếu tố hỗ trợ từ bên ngoài, nhất là khung chính sách và sự đồng hành của các thiết chế công, vì vậy, cần phải thúc đẩy phát triển kinh tế xanh bền vững trong giai đoạn tới.
2. Hỗ trợ của Nhà nước trong khởi nghiệp xanh
Khởi nghiệp xanh là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới trong giao thoa giữa khởi nghiệp và phát triển bền vững đóng vai trò trung tâm trong tiến trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh và mô hình phát triển bền vững. Richomme-Huet, Vial và de Freyman (2011) mở rộng khái niệm này bằng cách nhấn mạnh khởi nghiệp xanh không chỉ là hành động kinh doanh có ý thức sinh thái mà còn là một cách thức sáng tạo để đạt được sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Jolink & Niesten (2013) bổ sung khởi nghiệp xanh hướng đến bảo tồn thiên nhiên, hỗ trợ hệ sinh thái và tạo ra giá trị xã hội tích cực. Theo Gibbs và O’Neill (2014), đây là hình thức kinh doanh kết hợp nhận thức môi trường với hành động cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Doanh nghiệp khởi nghiệp xanh là loại hình doanh nghiệp khởi nghiệp có mục tiêu kinh doanh gắn liền với các giá trị phát triển bền vững, trong đó các sản phẩm, dịch vụ hoặc quy trình được thiết kế nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường; đồng thời, thúc đẩy công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế (Schaper, 2016; UNEP, 2021). Các văn bản như: Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”; Chỉ thị số 9/CT-TTg ngày 18/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tạo điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050; Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 23/01/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035 đã trở thành hành lang pháp lý quan trọng trong việc xây dựng các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam.
Trong lĩnh vực kinh tế xanh, vai trò của Nhà nước là phải bảo đảm sự gắn kết giữa mục tiêu tăng trưởng và bảo vệ môi trường. Đồng thời, tạo môi trường thể chế, chính sách thuận lợi, cung cấp các ưu đãi phù hợp thúc đẩy đổi mới sáng tạo để khuyến khích doanh nghiệp xanh phát triển.
(1) Chính sách tài chính – thuế. Đây là những chính sách đóng vai trò thu hút vốn tư nhân và giảm thiểu rủi ro đầu tư, như: cung cấp vốn, bảo lãnh tín dụng, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các startup xanh hoặc hình thành các quỹ đầu tư xanh. Tuy nhiên, theo đánh giá của UNDP (2022), phần lớn các chính sách này chưa có sự phân loại rõ ràng đối với khởi nghiệp xanh dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Ngoài ra, hệ thống ưu đãi thuế hiện hành chưa đủ hấp dẫn đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ thân thiện môi trường.
(2) Hạ tầng hỗ trợ. Đây là hạ tầng chuyên biệt là nền tảng vật chất quan trọng để các doanh nghiệp khởi nghiệp xanh phát triển, bao gồm: xây dựng khu công nghiệp sinh thái, không gian làm việc chung hoặc trung tâm ươm tạo chuyên biệt cho doanh nghiệp xanh. Hiện nay, một số mô hình hỗ trợ hạ tầng cho khởi nghiệp đã xuất hiện như Vietnam Silicon Valley, Techfest, các trung tâm ươm tạo tại các trường đại học và viện nghiên cứu. Tuy nhiên, hiện rất ít trung tâm có định hướng chuyên biệt về khởi nghiệp xanh, các khu công nghiệp sinh thái tại các tỉnh: Ninh Bình, Cần Thơ, Đà Nẵng theo mô hình UNIDO cũng chỉ mới ở quy mô nhỏ chưa tích hợp các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp xanh. Không gian làm việc chung (co-working space) tại các thành phố lớn, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đã phát triển nhanh, song chủ yếu phục vụ startup công nghệ – không gắn với phát triển bền vững hoặc đổi mới xanh. Điều này khiến doanh nghiệp khởi nghiệp xanh thiếu nền tảng vật chất phù hợp để vận hành và thử nghiệm sản phẩm.
(3) Hệ thống pháp lý và thể chế. Khung pháp lý rõ ràng và linh hoạt là điều kiện tiên quyết giúp doanh nghiệp khởi nghiệp xanh an tâm hoạt động và mở rộng thiết lập hành lang pháp lý thuận lợi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và thúc đẩy đấu thầu công xanh. Tuy nhiên, chính sách đấu thầu công chưa đặc biệt vưu tiên các sản phẩm – dịch vụ xanh dẫn đến thiếu thị trường đầu ra cho startup xanh trong khu vực công.
(4) Giáo dục – đào tạo và cố vấn. Hiện nay, một số trường đại học đã tích hợp nội dung giáo dục khởi nghiệp và phát triển bền vững vào chương trình đào tạo, như: Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa các môn học liên quan đến khởi nghiệp vào chương trình đào tạo chính thức của nhiều ngành, đặc biệt là các ngành kinh tế và quản lý; đồng thời, lồng ghép trong các môn học về kinh tế phát triển, quản lý tài nguyên hoặc trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh đã đưa các môn học về khởi nghiệp, kinh doanh bền vững và trách nhiệm xã hội vào chương trình đào tạo; đồng thời, khuyến khích các dự án khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ xanh, năng lượng tái tạo và các giải pháp kỹ thuật bền vững. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã thành lập Trung tâm Hỗ trợ Khởi nghiệp Sáng tạo BKHUP, tổ chức các cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp, các buổi workshop, talkshow về khởi nghiệp và phát triển bền vững; đồng thời, đưa các nội dung liên quan vào một số môn học thuộc các ngành kỹ thuật và kinh tế. Trường Đại học Ngoại thương đã tích hợp các kiến thức về kinh doanh bền vững, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) vào các môn học quản trị kinh doanh, kinh tế quốc tế; đồng thời, các câu lạc bộ sinh viên hoạt động trong lĩnh vực khởi nghiệp và phát triển cộng đồng…
Đây là công cụ dài hạn giúp hình thành tư duy khởi nghiệp và cung cấp kỹ năng vận hành doanh nghiệp xanh, tích hợp nội dung khởi nghiệp bền vững vào chương trình giáo dục đại học; hỗ trợ đào tạo kỹ năng kinh doanh xanh và cung cấp dịch vụ cố vấn chuyên sâu. Tuy nhiên, các chương trình đào tạo về khởi nghiệp xanh vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường, đội ngũ cố vấn, huấn luyện viên cho doanh nghiệp xanh cũng còn mỏng nên việc kết nối giữa startup và chuyên gia tư vấn vẫn chủ yếu dựa trên quan hệ cá nhân hoặc qua các chương trình tài trợ ngắn hạn. Điều này dẫn tới hiệu quả đào tạo và hỗ trợ chưa cao, chưa tạo được mạng lưới tri thức bền vững.
(5) Hợp tác công – tư. Các sáng kiến hợp tác công – tư giúp huy động nguồn lực từ khu vực tư nhân và bảo đảm tính bền vững của các chương trình hỗ trợ, nghiên cứu và triển khai sáng kiến khởi nghiệp xanh. Hội nghị Thượng đỉnh P4G 2025 tại Hà Nội đã trở thành một minh chứng rõ ràng của Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác công – tư để hỗ trợ khởi nghiệp xanh. Nhiều thỏa thuận đã được ký kết, các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp xanh mới đã được công bố và các quỹ đầu tư xanh đã được ra mắt. Điều này cho thấy, một động lực mạnh mẽ và quyết tâm cao của Việt Nam trong việc tận dụng sức mạnh tổng hợp của cả khu vực công và tư để xây dựng một tương lai xanh và bền vững.
Có thể thấy, vai trò của Nhà nước trong hỗ trợ khởi nghiệp xanh đang có những bước tiến vững chắc trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững thông qua đổi mới sáng tạo xanh, mở ra nhiều cơ hội hấp dẫn cho các startup xanh và góp phần xây dựng một nền kinh tế xanh, thịnh vượng và bền vững. Vì vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý, đa dạng hóa các công cụ hỗ trợ tài chính, hạ tầng, đào tạo và thiết lập cơ chế hợp tác Nhà nước – tư nhân hiệu quả sẽ là chìa khóa để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khởi nghiệp xanh trong thời gian tới.
4. Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy khởi nghiệp xanh
Một là, hoàn thiện khung pháp lý và chính sách đặc thù cho doanh nghiệp khởi nghiệp xanh.
Việc xây dựng một định nghĩa chính thức về “doanh nghiệp khởi nghiệp xanh” cùng với bộ tiêu chí phân loại là hết sức cần thiết nhằm làm cơ sở nhận diện, thống kê và thiết kế chính sách phù hợp. Bên cạnh đó, cần tích hợp các mục tiêu phát triển bền vững, kinh tế xanh và tuần hoàn vào chương trình quốc gia về khởi nghiệp sáng tạo; đồng thời, rà soát và điều chỉnh các quy định pháp luật liên quan đến môi trường, đầu tư, thuế, đấu thầu công và sở hữu trí tuệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các mô hình kinh doanh xanh, đổi mới sáng tạo.
Hai là, phát triển hệ thống tài chính và tín dụng xanh cho khởi nghiệp.
Nhà nước cần xem xét việc thành lập Quỹ Hỗ trợ khởi nghiệp xanh cấp quốc gia với chức năng bảo lãnh tín dụng và đồng tài trợ các dự án khởi nghiệp xanh có tiềm năng. Cùng với đó, chính sách ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp đạt tiêu chuẩn xanh cũng cần được cụ thể hóa và áp dụng nhất quán. Việc khuyến khích đầu tư tác động từ khu vực tư nhân thông qua các biện pháp hỗ trợ tài chính; đồng thời, việc miễn giảm thuế cũng là một hướng đi cần được chú trọng. Ngoài ra, cần thúc đẩy mô hình tín dụng xanh cho doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua hệ thống ngân hàng chính sách hoặc tổ chức tài chính vi mô, kết hợp với đào tạo tài chính và cơ chế chia sẻ rủi ro.
Ba là, tăng cường đầu tư cho hạ tầng hỗ trợ khởi nghiệp xanh và xây dựng mạng lưới đổi mới sáng tạo xanh.
Nhà nước cần ưu tiên thành lập và vận hành các trung tâm ươm tạo, tăng tốc khởi nghiệp chuyên biệt dành cho doanh nghiệp xanh, có liên kết chặt chẽ với các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp lớn. Việc phát triển các không gian làm việc chung (co-working space) thân thiện với môi trường và tích hợp dịch vụ hỗ trợ cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm tạo điều kiện cho các startup xanh phát triển trong giai đoạn đầu.
Tiếp tục khuyến khích xây dựng các khu công nghiệp sinh thái có không gian thử nghiệm dành riêng cho các startup hoạt động trong lĩnh vực xanh, qua đó, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận hạ tầng với chi phí hợp lý.
Bốn là, đổi mới giáo dục và đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực cho khởi nghiệp xanh.
Các trường cần tích hợp các nội dung về khởi nghiệp bền vững, đổi mới sáng tạo xanh vào chương trình giảng dạy tại các trường đại học, cao đẳng và cơ sở đào tạo nghề, nhất là trong các ngành kinh tế, kỹ thuật, quản trị và môi trường. Cùng với đó, phát triển mạng lưới cố vấn (mentors) và chuyên gia trong lĩnh vực khởi nghiệp xanh; đồng thời, ban hành chính sách hỗ trợ, đãi ngộ phù hợp để thu hút lực lượng chuyên gia này tham gia vào quá trình hỗ trợ khởi nghiệp. Việc đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước các cấp, đặc biệt là ở địa phương cũng cần được chú trọng, nhằm bảo đảm chính sách hỗ trợ được triển khai hiệu quả và sát thực tiễn.
Năm là, thúc đẩy hợp tác công – tư và hội nhập quốc tế trong phát triển khởi nghiệp xanh.
Nhà nước, cần thiết lập cơ chế khuyến khích các mô hình hợp tác công – tư (PPP) trong hỗ trợ khởi nghiệp xanh, đặc biệt là trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng công nghệ xanh, đầu tư hạ tầng hoặc đồng tài trợ các sáng kiến khởi nghiệp. Ngoài ra, cần tăng cường kết nối các doanh nghiệp khởi nghiệp xanh của Việt Nam với các mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu, các tổ chức quốc tế và quỹ đầu tư tác động, qua đó mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tăng cường công tác truyền thông và giáo dục cộng đồng về giá trị của khởi nghiệp xanh cũng cần được đẩy mạnh nhằm tạo ra nhận thức xã hội tích cực, từ đó, thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội vào công cuộc chuyển đổi xanh.
5. Kết luận
Khởi nghiệp xanh không chỉ là một lựa chọn mang tính chiến lược mà còn là một yêu cầu cấp thiết trong tiến trình hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ việc kiến tạo khung pháp lý thuận lợi, cung cấp các chính sách ưu đãi tài chính và phi tài chính đến việc đầu tư nghiên cứu và phát triển và tăng cường hợp tác quốc tế đã tạo ra động lực to lớn cho sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp xanh. Tuy nhiên, để khởi nghiệp xanh thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế bền vững và giải quyết các thách thức môi trường cấp bách, vai trò của Nhà nước cần được tiếp tục củng cố và phát triển. Nhà nước cần tập trung vào việc hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ và nhất quán, tăng cường tính hiệu quả của các chính sách hỗ trợ, đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng xanh, công nghệ sạch; đồng thời, chú trọng đến việc xây dựng năng lực cho các nhà khởi nghiệp xanh và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc tiếp cận nguồn vốn xanh, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế xanh, bảo vệ môi trường và hướng tới một tương lai thịnh vượng bền vững.
Chú thích:
1. Kinh tế xanh tạo 24 triệu việc làm mới. https://www.ilo.org, truy cập ngày 23/4/2025.
2. Việt Nam phấn đấu giảm 43,5% tổng lượng phát thải khí nhà kính vào 2030. https://scem.gov.vn/vi/tin-tuc-trung-tam/chu-truong-chinh-sach/viet-nam-phan-dau-giam-43-5-tong-luong-phat-thai-khi-nha-kinh-vao-2030-852.html
Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ (2020). Chỉ thị số 09/CT-TTg ngày 18/02/2020 về tạo điều kiện cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
2. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.
3. Thủ tướng Chính phủ (2021). Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050.
4. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 23/01/2025 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035.
5. Cohen, B. & Winn, M. (2007). Market imperfections, opportunity and sustainable entrepreneurship. Journal of Business Venturing.
6. Hockerts, K. & Wüstenhagen, R. (2010). Greening Goliaths versus emerging Davids – Theorizing about the role of incumbents and new entrants in sustainable entrepreneurship. Journal of Business Venturing.
7. Hall, J. K., Daneke, G. A., & Lenox, M. J. (2010). Sustainable development and entrepreneurship: Past contributions and future directions. Journal of Business Venturing.
8. UNDP (2019). Green Industrial Policy and Green Entrepreneurship: Supporting Sustainable Development in Vietnam. United Nations Development Programme.
9. UNEP (2021). Green Startup Support and Sustainable Skills Development. United Nations Environment Programme.
10. Richomme-Huet, K., & de Freyman, J. (2011). What sustainable entrepreneurship looks like: An exploratory study from a student perspective. International Journal of Entrepreneurship and Small Business.
11. Gibbs, D., & O’Neill, K. (2014). Rethinking sociologies of the environment: Green entrepreneurship and sustainable development. Sociology.
12. Jolink, A., & Niesten, E. (2013). Sustainable development and business models of entrepreneurs in the organic food industry. Business Strategy and the Environment.
13. Isenberg, D. (2011). The entrepreneurship ecosystem strategy as a new paradigm for economic policy: Principles for cultivating entrepreneurship. Babson Entrepreneurship Ecosystem Project, Babson College.
12. Jolink, A., & Niesten, E. (2013). Sustainable development and business models of entrepreneurs in the organic food industry. Business Strategy and the Environment.
13. Isenberg, D (2011). The entrepreneurship ecosystem strategy as a new paradigm for economic policy: Principles for cultivating entrepreneurship. Babson Entrepreneurship Ecosystem Project, Babson College.
14. WEF (2022). Public-Private Cooperation for Green Growth and Innovation. World Economic Forum.
15. World Bank (2023). Vietnam Country Climate and Development Report. https://www.worldbank.org