ThS. Hồ Thị Huyền Trang
Phân hiệu Học viện Hành chính và Quản trị công tại tỉnh Đắk Lắk
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính là chủ trương lớn, cần sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bài viết nêu những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từ đó, đề xuất một số giải pháp phát huy sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh sắp xếp đơn vị hành chính.
Từ khóa: Phát huy; đại đoàn kết toàn dân tộc; sắp xếp; đơn vị hành chính.
1. Khái quát về đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết toàn dân tộc là sự hợp tác, thống nhất về ý chí và hành động của toàn thể dân tộc Việt Nam, tạo thành một khối vững chắc để hoàn thành mục tiêu chung của dân tộc. Đại đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc ta biểu hiện qua tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, đùm bọc, yêu thương, gắn bó lẫn nhau đã trở thành chất keo kết dính các thành viên trong mỗi gia đình, các cá nhân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Trong hơn 1.000 năm thời kỳ chống Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã biết dựa vào dân, coi trọng dân để phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc. Tiêu biểu như tư tưởng trọng dân được khẳng định rõ trong Chiếu Dời đô của Lý Công Uẩn: “Muốn mưu việc lớn, tính kế muôn đời cho con cháu thì trên phải vâng mệnh trời, dưới theo ý dân1’’. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Nguyễn Trãi: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”2, ông đã đúc kết về sức mạnh của Nhân dân: “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”3.
Kế thừa và tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc và tư tưởng đoàn kết trong học thuyết Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ vai trò và vị trí của đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng. Việc xây dựng đại đoàn kết toàn dân phải dựa vào sự đồng tâm hiệp lực của toàn thể mọi người, tập hợp và phát huy được sức mạnh của tập thể: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây”4. Chính vì vậy, tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết dân tộc phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, mang tính chiến lược lâu dài, ổn định bền vững, được tập hợp có tổ chức và tổ chức đó chính là Mặt trận Dân tộc thống nhất. Một tổ chức tập hợp các giai cấp, tầng lớp trong một cộng đồng, dân tộc có điểm tương đồng về mục tiêu, lợi ích và mỗi thành viên, trong đó được thụ hưởng thành quả của mình, phát huy quyền dân chủ. Người khẳng định: “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”5. Trong từng thời kỳ tương ứng với những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau, việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có thể khác nhau về cách thức, phương pháp, mục tiêu nhưng để có được thắng lợi và thành công thì phải phát huy được sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh tổng hòa của toàn dân, toàn quân, của các bộ phận người Việt Nam ở trong và ngoài nước, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, địa vị xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc là nội dung xuyên suốt, nhất quán trong đường lối, chiến lược, được đúc kết qua các kỳ Đại hội, thể hiện cụ thể qua các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị.
Trong đó, đáng chú ý là việc cụ thể hóa quan điểm đại đoàn kết dân tộc qua Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 của Bộ Chính trị (khóa VII) về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất, khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Đảng và Nhà nước ta… Quan điểm về đại đoàn kết dân tộc phải được thể hiện trong mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại nhằm đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp xã hội, gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mọi người với nghĩa vụ công dân, lấy lợi ích dân tộc làm trọng… Nghị quyết nhấn mạnh sự quan trọng của việc phát huy sức mạnh của đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc đổi mới đất nước.
Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” với mục tiêu củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết sử dụng cụm từ “Đại đoàn kết toàn dân tộc” thay cho cụm từ “Đại đoàn kết dân tộc” trong Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 với ý nghĩa mở rộng đại đoàn kết… Đây là bước phát triển mới trong tư duy của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) đã cụ thể hóa hơn nữa chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc và ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Nghị quyết số 43-NQ/TW xác định, tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Những vấn đề đặt ra đối với việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc khi sắp xếp các đơn vị hành chính
Sắp xếp đơn vị hành chính là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tinh giản đầu mối, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn mới. Quá trình này không chỉ mang ý nghĩa điều chỉnh địa giới hành chính mà còn tác động sâu sắc tới kinh tế, chính trị, văn hóa, đời sống của Nhân dân. Đây là công việc hệ trọng, cấp bách nên phải tiến hành thận trọng, bài bản, có lộ trình rõ ràng, bảo đảm chất lượng, hiệu quả và đặc biệt phải phát huy được sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy lợi ích của Nhân dân làm trung tâm.
Ngày 14/4/2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 759/QĐ-TTg phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Việc sắp xếp lại các đơn vị hành chính sẽ giúp phát triển vững chắc hơn khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tạo sự hài lòng và tin tưởng của người dân với chính quyền và tăng cường mối liên kết giữa chính quyền và Nhân dân. Sáp nhập đơn vị hành chính, bộ máy nhà nước sẽ được tinh gọn, giảm sự chồng chéo, cồng kềnh, từ đó giúp chính quyền kiểm soát công việc dễ dàng hơn, nâng cao chất lượng phục vụ người dân; đồng thời, người dân được tiếp cận dịch vụ công tốt hơn, thủ tục hành chính của người dân được xử lý nhanh gọn, hiệu quả, rút ngắn thời gian giải quyết các vấn đề của người dân. Bên cạnh đó, việc xóa bỏ tầng nấc trung gian, giảm số lượng cán bộ, công chức và chi phí vận hành từ việc sắp xếp lại đơn vị hành chính sẽ làm giảm gánh nặng chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, từ đó, có thể tái đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân, xây dựng cơ sở hạ tầng… để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Khi người dân được thụ hưởng lợi ích thiết thực từ việc sắp xếp lại đơn vị hành chính sẽ gia tăng sự đồng thuận, ủng hộ của người dân đối với các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước, tăng cường mối liên kết chặt chẽ giữa chính quyền và Nhân dân.
Thứ hai, tăng cường sự gắn bó, giao lưu, hiểu biết lẫn nhau giữa các cộng đồng dân cư. Sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, mở rộng quy mô cấp xã cả về địa giới hành chính và quy mô dân số sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Về kinh tế, tạo ra không gian phát triển rộng lớn hơn, tận dụng được các nguồn lực, điều kiện, lợi thế vùng, miền để sáng tạo và phát triển, gia tăng sức mạnh liên kết vùng, miền, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển. Về văn hóa – xã hội, cộng đồng dân cư lớn hơn sẽ làm các giá trị văn hóa truyền thống thêm phong phú, đa dạng, đời sống tinh thần của người dân được nâng cao. Việc sinh sống và làm việc trong một đơn vị hành chính mới khuyến khích sự giao lưu, tiếp xúc sẽ tăng cường thêm sự hiểu biết, tôn trọng, gắn bó lẫn nhau trong cộng đồng dân cư, hạn chế các định kiến, phân biệt vùng, miền.
Thứ ba, hạn chế sự phân hóa xã hội, thúc đẩy công bằng xã hội. Việc cơ cấu lại đơn vị hành chính sẽ giúp phân bổ các nguồn lực về kinh tế, tự nhiên, dân số đồng đều hơn, giảm khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giảm chênh lệch mức sống của người dân, từ đó, tạo sự công bằng trong việc tiếp cận chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, cơ sở hạ tầng tốt hơn. Chính vì vậy, sẽ thu hẹp khoảng cách giàu – nghèo, tạo sự công bằng về cơ hội.
Thứ tư, phát huy vai trò làm chủ của người dân. Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp xã theo chủ trương của Đảng và Nhà nước phải lấy ý kiến của Nhân dân, đúng với tinh thần của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam “Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước”. Việc lấy ý kiến của Nhân dân thể hiện sự tôn trọng vai trò làm chủ của Nhân dân, tăng cường sự quản lý của người dân, thể hiện tính dân chủ trong quá trình sắp xếp. Lấy ý kiến người dân giúp tạo ra sự ổn định xã hội, đồng thuận của người dân; đồng thời, giúp bảo đảm tính khả thi trong việc thực hiện. Xét đến cùng, người dân là người hiểu rõ nhất về truyền thống, văn hóa của địa phương, nhu cầu phát triển cũng như các lợi thế, bất cập của địa phương đó. Người dân được nói lên tiếng nói của mình sẽ giúp chính quyền đưa ra quyết định đúng đắn, hợp lý, phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có những tác động tiêu cực của việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đến đại đoàn kết toàn dân tộc, điển hình như:
Một là, gây tâm lý hoang mang, lo lắng đối với người dân và một bộ phận cán bộ, công chức. Đối với người dân, tên của tỉnh hoặc xã, phường gắn liền với bản sắc văn hóa, lịch sử, ký ức. Việc thay đổi tên gọi, trong giai đoạn đầu có thể làm cho một bộ phận người dân cảm thấy hụt hẫng, tiếc nuối. Bên cạnh đó, mối quan tâm lớn nhất là việc thay đổi và điều chỉnh các giấy tờ hành chính khi sáp nhập, thông tin trên giấy tờ không khớp với địa danh mới. Đối với cán bộ, công chức thì việc sáp nhập các đơn vị hành chính có thể gây nên tâm lý lo lắng, bất an về vị trí công tác, bị luân chuyển hoặc nghỉ việc do không đáp ứng được điều kiện công tác mới, đơn vị công tác có khoảng cách xa hơn…
Hai là, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để chống phá, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động liên tục tung ra các luận điệu xuyên tạc, bóp méo chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính của Đảng và Nhà nước để kích động người dân mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước, hệ thống chính trị, kích động mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo; phát tán các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận xã hội.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức cộng đồng về lợi ích của việc sắp xếp các đơn vị hành chính, củng cố niềm tin của Nhân dân vào đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Cụ thể:
Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, như: cổng thông tin điện tử, báo chí, truyền hình, mạng xã hội để tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân và đội ngũ cán bộ, công chức về chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính.
Thông qua các tổ chức chính trị, như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… cùng với cán bộ thôn, tổ dân phố để tuyên truyền, tổ chức các cuộc thi, cuộc vận động, phong trào yêu nước ở địa phương, văn nghệ, tiểu phẩm phản ánh đúng đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước, lên án các luận điệu phản động…
Trong các hoạt động cơ sở luôn đặt mục tiêu xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân lên hàng đầu. Tổ chức các buổi đối thoại trực tiếp tại hội trường thôn, tổ dân phố để lắng nghe ý kiến, giải đáp kịp thời các thắc mắc của người dân, nêu gương điển hình của các đơn vị thực hiện tốt việc sắp xếp.
Đặc biệt, đối với đồng bào dân tộc thiểu số, phải đặc biệt quan tâm để bảo đảm quyền lợi, sự đồng thuận và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Tổ chức các buổi đối thoại có sự tham gia của người uy tín trong cộng đồng dân tộc thiểu số, các già làng… để người dân hiểu rõ mục tiêu, lợi ích của việc sáp nhập và có các chính sách hỗ trợ để duy trì, bảo tồn các nét văn hóa đặc sắc dân tộc. Đối với cán bộ người dân tộc thiểu số, cần có sự ưu tiên trong sắp xếp, bố trí việc làm phù hợp và bồi dưỡng, nâng cao năng lực, bản lĩnh chính trị để làm cầu nối vững chắc giữa chính quyền và người dân, phát huy tinh thần đoàn kết trong cộng đồng dân cư.
Thứ hai, bảo đảm sự công bằng, giải quyết hài hòa lợi ích của các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng, miền, giữa các dân tộc, tôn giáo nhằm tạo được sự đồng thuận, thống nhất cao về chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các chính sách trước, trong và sau quá trình sáp nhập cần tham vấn ý kiến của người dân và cần được tổng kết để rút ra những mặt được và chưa được để có biện pháp khắc phục kịp thời, phân bổ các nguồn lực hợp lý để bảo đảm lợi ích của mọi tầng lớp, của các vùng, miền là như nhau, duy trì được bản sắc văn hóa đặc trưng của các dân tộc mà không bị phai mờ, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của người dân trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ ba, nhận diện kịp thời và đấu tranh chống các luận điệu phản động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh sáp nhập các đơn vị hành chính. Đây là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn dân để giữ vững ổn định chính trị – xã hội, xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Muốn làm tốt giải pháp này cần sử dụng đồng thời nhiều biện pháp, cả về nhận thức, chính trị – pháp luật, tuyên truyền, công tác tổ chức bộ máy nhà nước. Trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để trang bị các kiến thức về chính trị – pháp luật cho cán bộ, công chức và toàn thể nhân dân nhận thức đúng về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, về chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính, từ đó sẽ nâng cao cảnh giác với các luận điệu phản động của các thế lực thù địch, các thông tin bịa đặt, bóp méo sẽ bị phản bác ngay từ cơ sở. Bên cạnh đó, các lực lượng an ninh chính trị cần phát hiện sớm các hình thức, nội dung xuyên tạc, chống phá và thực hiện nghiêm các chế tài pháp luật xử lý các đối tượng tung tin kích động chống phá. Đồng thời, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, già làng, chức sắc tôn giáo trong việc tuyên truyền, vận động người dân đoàn kết, chống lại các thế lực thù địch; xây dựng chính quyền gần dân, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân. Chỉ khi Nhân dân đồng sức, đồng lòng thì mọi âm mưu chống phá, chia rẽ dân tộc đều bị đẩy lùi.
4. Kết luận
Sáp nhập các đơn vị hành chính là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là vấn đề hết sức nhạy cảm, cần sự đồng tâm, hiệp lực của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận của Nhân dân. Bên cạnh những lợi ích mà việc sáp nhập các đơn vị hành chính mang lại để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì cũng không loại trừ các thách thức đặt ra trong việc xây dựng và bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bối cảnh đó, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi chủ trương sắp xếp các đơn vị hành chính.
Chú thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư (Cao Huy Giu phiên dịch, Đào Duy Anh hiệu đính) (1972). Chú giải và khảo chứng. Tập I. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 190.
2, 3. Nguyễn Trãi toàn tập (1969). Tập 1. H. NXB Khoa học xã hội, tr. 84, 141.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 244.
5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 607.
6. Những lần sáp nhập tỉnh, thành ở Việt Nam. https://dantri.com.vn/xa-hoi/nhung-lan-sap-nhap-tinh-thanh-o-viet-nam-20250219220800997.htm
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2003). Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 Hội nghị Trung ương 11 (khóa XIII).
4. Bộ Chính trị (1993). Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 17/11/1993 về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất.
5. Chính phủ (2025). Nghị quyết số 74/NQ-CP ngày 07/4/2025 về kế hoạch thực hiện sắp xếp đơn vị hành chính và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.
6. Học viện Hành chính Quốc gia (2016). Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. H. NXB Bách khoa Hà Nội.
7. Quốc hội (2025). Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.
8. Thủ tướng Chính phủ (2025). Quyết định số 759/QĐ-TTg ngày 14/4/2025 phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp.