ThS. Tạ Tường Vi
Trường Đại học Lao động – Xã hội
(Quanlynhanuoc.vn) – Trí tuệ nhân tạo (AI) đang dần cho thấy sự hiện diện ấn tượng của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hiện đại nói chung, trong giáo dục nói riêng. Sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ trí tuệ nhân tạo và các nền tảng học tập tích hợp AI đã tạo ra những thay đổi lớn trong phương pháp học tập, tiếp cận tri thức và hình thành kỹ năng học thuật của sinh viên. Bài viết tập trung vào nghiên cứu thực trạng, mức độ nhận thức và định hướng trong sử dụng AI của sinh viên Việt Nam thông qua khảo sát sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Qua phương pháp điều tra xã hội học và phân tích định tính, định lượng, nghiên cứu nhằm đưa ra cái nhìn khái quát về sự thay đổi trong hành vi học tập, thái độ và nguyện vọng của sinh viên khi sử dụng AI. Qua đó, đề xuất một số định hướng và khuyến nghị ứng dụng AI hiệu quả trong nhà trường.
Từ khóa: Trí tuệ nhân tạo, AI trong học tập, sinh viên và AI, nhận thức về AI, AI và đạo đức học thuật, AI trong môi trường đại học.
I. Đặt vấn đề
AI đang ngày càng khẳng định vai trò của mình trong các lĩnh vực đời sống trên phạm vi toàn thế giới, các công cụ AI, như: ChatGPT, Gemini, DeepSeek, Grammarly, hay AI hỗ trợ dịch thuật, AI tạo hình ảnh, video đang được sinh viên trên toàn thế giới tiếp cận và sử dụng ngày càng phổ biến. Sự phổ cập nhanh chóng này không chỉ thay đổi cách tiếp cận tri thức, mà còn đặt ra những thách thức mới về đạo đức học thuật, tư duy phản biện và năng lực học tập chủ động.
Tại Việt Nam, AI cũng đang từng bước đi sâu vào lĩnh vực giáo dục, trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực cho dạy và học, tuy vậy việc ứng dụng AI trong môi trường đại học vẫn chưa được nghiên cứu toàn diện. AI đặt ra thách thức lớn đối với chuẩn mực đạo đức học thuật, đặc biệt trong việc đảm bảo tính trung thực, nguyên bản và công bằng trong học tập và nghiên cứu.
Theo OECD (2023), sử dụng AI trong giáo dục cần đi kèm với việc giáo dục sinh viên về đạo đức số, kỹ năng tự học và khả năng chịu trách nhiệm trước hành động học thuật của mình. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có những nghiên cứu cụ thể đánh giá mức độ hiểu biết, cách thức sử dụng, cũng như tác động của AI đối với sinh viên của các trường đại học Việt Nam. Vì vậy, việc khảo sát thực trạng sử dụng AI, phân tích ảnh hưởng của nó đến kỹ năng học tập, đạo đức học thuật và định hướng cho sinh viên là cần thiết. Nghiên cứu này nhằm góp phần cung cấp cái nhìn thực tiễn, làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách hỗ trợ sinh viên tiếp cận và sử dụng AI một cách hiệu quả, có trách nhiệm trong bối cảnh giáo dục hiện đại.
2. Tổng quan lý luận và các nghiên cứu liên quan
AI được hiểu là khả năng của hệ thống máy móc trong việc thực hiện các nhiệm vụ đòi hỏi trí tuệ con người như học tập, lập luận, giải quyết vấn đề và ra quyết định (Russell & Norvig, 2016). Trong giáo dục, AI không chỉ đóng vai trò hỗ trợ cá nhân hóa việc học mà còn thúc đẩy sự phát triển các kỹ năng mềm như tư duy phản biện, sáng tạo và tự học.
Mô hình Chấp nhận công nghệ (Technology Acceptance Model – TAM) được phát triển bởi Davis (1986; 1989), nhằm giải thích và dự đoán hành vi sử dụng công nghệ của người dùng. TAM cho rằng, việc một cá nhân quyết định chấp nhận và sử dụng một công nghệ mới chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố tâm lý chính: nhận thức về tính hữu ích (Perceived Usefulness – PU): mức độ mà người dùng tin rằng việc sử dụng công nghệ sẽ nâng cao hiệu quả công việc của họ. Nhận thức về tính dễ sử dụng (Perceived Ease of Use – PEOU): mức độ mà người dùng tin rằng việc sử dụng công nghệ sẽ không đòi hỏi nhiều nỗ lực. Theo mô hình TAM, hai yếu tố này ảnh hưởng đến thái độ (Attitude Toward Use), từ đó dẫn đến ý định hành vi (Behavioral Intention) và cuối cùng là hành vi thực tế (Actual Use).
Việc sinh viên sử dụng một công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo trong học tập cũng tuân theo logic của mô hình TAM: Nếu sinh viên nhận thức rằng AI giúp học nhanh hơn, hiệu quả hơn và không phức tạp khi sử dụng, họ sẽ có thái độ tích cực và gia tăng ý định sử dụng AI. Ngược lại, nếu sinh viên cho rằng AI khó dùng hoặc không mang lại lợi ích thực sự cho việc học, mức độ chấp nhận sẽ thấp. Ngoài ra, yếu tố kinh nghiệm cá nhân, áp lực từ môi trường học tập, niềm tin vào độ tin cậy của AI cũng có thể điều chỉnh mối quan hệ giữa PU, PEOU và hành vi sử dụng.
Sinh viên của thời đại công nghệ số có mức độ tiếp cận công nghệ cao, đồng thời cũng đối mặt với thách thức về sự phụ thuộc vào AI, giảm khả năng tư duy phản biện và sáng tạo nếu sử dụng không kiểm soát (Luckin et al., 2016). Việc khai thác AI hiệu quả đòi hỏi sinh viên không chỉ có kỹ năng số mà còn cần năng lực đánh giá thông tin, hiểu rõ giới hạn và đạo đức khi sử dụng công nghệ.
Trên thế giới, các nghiên cứu về ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong giáo dục đại học đã được triển khai khá tích cực, cả về mặt công nghệ lẫn khía cạnh sư phạm và đạo đức. Luckin et al. (2016) đề xuất khái niệm “trí tuệ nhân tạo hỗ trợ học tập” (AI for Learning), trong đó AI đóng vai trò như người hỗ trợ cá nhân hóa tiến trình học của từng sinh viên. Các nghiên cứu của UNESCO (2022) và OECD (2023) cũng nhấn mạnh vai trò của AI trong việc tạo ra môi trường học tập linh hoạt, thông minh và định hướng kỹ năng tương lai, đồng thời cảnh báo rủi ro liên quan đến đạo đức học thuật, bảo mật dữ liệu và sự phụ thuộc công nghệ. Nghiên cứu của Alenezi (2021) cho thấy AI là yếu tố trung tâm trong chuyển đổi số giáo dục đại học, nhưng cần được tích hợp đi kèm chính sách kiểm soát phù hợp với văn hóa học thuật từng quốc gia.
Tại Việt Nam, nghiên cứu học thuật về AI trong đại học còn tương đối mới, chưa nhiều và phân tán. Một số bài viết bước đầu khảo sát nhận thức và hành vi sử dụng AI trong học tập cho thấy học sinh, sinh viên tích cực tiếp cận công nghệ mới, tuy nhiên chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng đạo đức số, và chưa có hướng dẫn chính thức từ nhà trường về phạm vi và cách sử dụng AI trong học tập. Bởi vậy AI vẫn đang dừng lại trong các công trình nghiên cứu như một cơ hội tiềm năng đi kèm với những thách thức không nhỏ.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp kết hợp định lượng và định tính, nhằm đảm bảo phân tích đầy đủ cả về mặt số liệu thực tiễn lẫn chiều sâu nhận thức, cảm nhận và hành vi của người học.
Phương pháp định lượng sử dụng bảng hỏi gồm 4 phần chính: thông tin cá nhân, mức độ sử dụng AI, nhận thức về đạo đức học thuật và cách thức sử dụng AI. Khảo sát thực hiện trên 500 mẫu được chọn ngẫu nhiên giữa sinh viên các khóa của các trường đại học trên địa bàn Hà Nội.
Phương pháp định tính sử dụng công cụ phỏng vấn sâu trên 20 sinh viên các trường khác nhau, các ngành khác nhau có trải nghiệm ứng dụng AI trong học tập. Nội dung câu hỏi tập trung vào các trải nghiệm cá nhân với AI, lý do sử dụng, nhận thức đạo đức, lo ngại, kỳ vọng và đề xuất.
3. Kết quả nghiên cứu
Bảng trả lời khảo sát nhận được từ hơn 500 sinh viên các khóa khác nhau của các trường đại học trên địa bàn Hà Nội: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Bách khoa, Trường Đại học Hà Nội, Trường Đại học Luật Hà Nội, Trường Đại học Lao động Xã hội, Trường Đại học Ngoại thương, Trường Đại học Mở Hà Nội, Trường Đại học Giao thông Vận tải, Trường Đại học Công đoàn, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Kết quả cho thấy 98,9% sinh viên được hỏi có sử dụng AI phục vụ cho mục đích học tập và giải trí. Tỷ lệ các bạn sinh viên thỉnh thoảng sử dụng chiếm ưu thế vượt trội, sau đấy đến thường xuyên sử dụng và phần trăm ít khi sử dụng không đáng kể.

Câu trả lời cho câu hỏi khảo sát nhiều lựa chọn: “Bạn đã từng sử dụng công cụ AI nào sau đây?” cho thấy, ChatGPT đang là công cụ AI được sử dụng nhiều nhất (96,9%), sau đấy đến Gemini của Google với (66,4%), AI dịch thuật chiếm 52,7%, AI tạo hình ảnh, video cũng được giới trẻ khá ưa chuộng với 35,1%, vị trí tiếp theo dành cho DeeSeek – AI tạo sinh non trẻ nhưng đang chiếm lĩnh thị trường rất nhanh (29%), AI hỗ trợ kiểm tra chính tả, ngữ pháp giúp cải thiện kỹ năng viết Grammarly được lựa chọn với 23,7% và cuối cùng, các lựa chọn AI khác chiếm 22,9%.
Về việc sử dụng AI để viết bài thay, quá nửa sinh viên làm khảo sát cho rằng, tùy vào tình huống để có thể coi đấy là không trung thực trong học thuật hay không, 22,1% chắc chắn rằng đấy là không trung thực, 19,1% còn lại cho rằng, việc để AI viết bài thay không có gì là không trung thực cả. Kết quả này cho thấy, mức độ nhận thức về đạo đức học thuật của sinh viên còn phân tán và khá là đáng báo động.

Câu hỏi về độ lệ thuộc vào AI khi sử dụng nhận được câu trả lời không đồng nhất, tỷ lệ khẳng định không cảm thấy lệ thuộc vẫn chiếm phần lớn, tuy nhiên chênh lệch không lớn, chưa đến 50% sinh viên được hỏi tự tin với vấn đề này. Hơn 50% còn lại dao động giữa câu trả lời, có bị ảnh hưởng và Không chắc.

Về cách thức sử dụng AI, đa số sinh viên coi AI là công cụ hỗ trợ học tập (84%), một số rất ít coi đấy là hình thức thay thế tư duy (2%) và 14% còn lại coi AI vừa là công cụ hỗ trợ học tập vừa là hình thức thay thế tư duy. Một bộ phận tương đối các bạn sinh viên được khảo sát cho rằng AI giúp nâng cao năng viết và nghiên cứu của mình (51,9%), một phần trăm khá nhỏ (10,7%) cho rằng AI làm suy giảm những năng lực này, còn một tỷ lệ không nhỏ không chắc chắn lắm (37,4%).
Khi sử dụng AI, 77% cho biết có kiểm tra lại thông tin được AI cung cấp, 17% tùy tình huống và 6% không kiểm tra. Chỉ 17% trong số các sinh viên được hỏi cho biết đã được giảng viên hoặc Nhà trường hướng dẫn cách sử dụng AI trong học tập. Con số này cho thấy AI đã bắt đầu bước vào trường học, tuy chưa ở mức độ phổ biến.
Khi được hỏi có nên đưa AI vào chương trình học trong nhà trường không thì 64,9% cho rằng nên; 8,4 phần trăm có ý kiến ngược lại và 26,7% không chắc chắn. Tuy nhiên, câu hỏi “Bạn nghĩ sinh viên tương lai có nên được đào tạo kỹ năng sử dụng AI như một phần của chương trình học không?” lại nhận được ý kiến phản hồi nhất quán hơn: 88,5% cho rằng cần thiết, chỉ có 11,5% có ý kiến ngược lại.
Qua kết quả khảo sát có thể thấy, AI đã trở thành công cụ phổ biến rộng rãi trong giới sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Tuy nhiên, các bạn sinh viên đang sử dụng AI gần như là tự phát, chưa ý thức rõ ràng về đạo đức học thuật cũng như các nguyên tắc, các tiêu chí sử dụng AI.
Nghiên cứu định tính được thực hiện bằng phỏng vấn 20 sinh viên đang sử dụng AI cho mục đích học tập. Được hỏi về lợi ích lớn nhất khi sử dụng AI trong học tập đa phần các bạn thống nhất ở vấn đề tiết kiệm thời gian. Ngoài ra, nhiều ý kiến còn nhận định những lợi ích khác, như: giúp sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các kiến thức; kết hợp phương pháp truyền thống và công nghệ hiện đại cải thiện một số những khó khăn khi sinh viên tìm những tài liệu hoặc link tra cứu; giúp tìm ý tưởng và gợi ý để việc suy nghĩ câu trả lời đc nâng đỡ hơn; hỗ trợ những vấn đề khó; khả năng tổng hợp và tóm tắt; truy cập kho dữ liệu của thế giới với tốc độ nhanh hơn chính xác hơn; tăng khả năng học tập, gia tăng tốc độ làm bài, tiết kiệm thời gian; AI một phần nào đó giúp các bạn sinh viên đưa ra khuôn mẫu hay nói một cách khác giúp sinh viên tạo dựng nên một khung sườn để sau đó dựa vào khả năng sáng tạo, khả năng tư duy để lấp đầy những khoảng trống chi tiết còn thiếu sót; em nghĩ là AI giúp sinh viên tiết kiệm thời gian hơn, tăng tính sáng tạo trong công việc cũng như học tập; thực sự AI có ích rất nhiều cho sinh viên trong việc học tập. Tuy vậy cũng chỉ nên dùng nó để tìm kiếm tài liệu, nguồn thông tin mở. AI không thể nào thay thế hoàn toàn tư duy con người mà chính là bản thân cần tìm tòi và học hỏi để nâng cao tư duy… các ý kiến rất đa dạng, cho thấy, cách nhìn nhận đa dạng của sinh viên đối với việc sử dụng AI.
Còn với câu hỏi: “Theo bạn, rủi ro lớn nhất khi sinh viên sử dụng AI trong học tập là gì?” gần như 100% người được hỏi cho rằng, đấy là “sự lệ thuộc, lạm dụng AI dẫn đến mất khả năng tư duy, sáng tạo”.
Câu hỏi về các đề xuất với nhà trường nhận được ý kiến trả lời khá tập trung, hướng đến một số nội dung chính, như: Nhà trường nên định hướng cho sinh viên sử dụng AI sao cho hiệu quả và hợp lý, tránh bị lạm dụng AI quá mức; Nhà trường cần kết hợp xen kẽ AI vào trong học tập; Nhà trường có thể thêm môn học AI đối với một số chuyên ngành, hiện tại đang được các doanh nghiệp áp dụng để hỗ trợ công việc. Ví dụ: Marketing; Media; tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo về AI; hướng dẫn áp dụng việc sử dụng AI trong quá trình học để đạt hiệu quả cao hơn; AI không phải một môn học và em không đánh giá cao việc tạo một môn học mới vào hệ thống giảng dạy chỉ để học viết câu lệnh AI. Em mong nhà trường giáo dục bằng các buổi hội thảo để học sinh biết sử dụng AI những cũng cần biết tác hại của nó; hướng dẫn sử dụng về kiến thức và đạo đức học thuật…
4. Kết luận và kiến nghị
Kết quả nghiên cứu cho thấy, AI đã và đang trở thành công cụ quen thuộc và phổ biến trong đời sống học tập của sinh viên Việt Nam nói chung, sinh viên các trường đại học trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Tỷ lệ sinh viên sử dụng các công cụ AI rất cao, với mục tiêu chủ yếu là hỗ trợ học tập, tìm kiếm thông tin, nâng cao kỹ năng viết và tiết kiệm thời gian. Hầu hết sinh viên nhìn nhận AI như một trợ thủ đắc lực giúp họ tiếp cận tri thức nhanh hơn và học tập hiệu quả hơn, và cũng đa phần có ý thức lo ngại về khả năng phụ thuộc, ỷ lại vào AI.
Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mặt hạn chế và thách thức đáng lưu ý. Nhận thức của sinh viên về đạo đức học thuật trong sử dụng AI còn chưa rõ ràng, thậm chí có biểu hiện dễ dãi và mâu thuẫn trong việc đánh giá đúng – sai khi để AI thay thế tư duy cá nhân. Mặt khác, việc sử dụng AI của sinh viên hiện nay gần như là tự phát, tự học, chưa có định hướng cụ thể hoặc hỗ trợ chính thức từ phía nhà trường.
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro và phát huy tối đa tiềm năng của AI trong môi trường giáo dục đại học, như:
(1) Với các cơ sở giáo dục đại học:
Cần xây dựng các hướng dẫn chính thức về việc sử dụng AI trong học tập, bảo đảm phù hợp với chuẩn mực đạo đức học thuật. Tích hợp các nội dung liên quan đến kỹ năng sử dụng AI, đạo đức số và tư duy phản biện vào chương trình đào tạo hoặc các hoạt động ngoại khóa như các buổi hội thảo, tọa đàm, các cuộc thi sáng tạo …
(2) Với giảng viên và cán bộ quản lý đào tạo:
Chủ động cập nhật kiến thức, kỹ năng về AI để đồng hành và hướng dẫn sinh viên hiệu quả hơn trong việc ứng dụng công nghệ mới. Hướng đẫn sinh viên sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ học tập chứ không phải thay thế quá trình tư duy cá nhân, có những phương pháp để kiểm tra, đánh giá mức độ trung thực học thuật của sinh viên khi làm bài.
(3) Với sinh viên:
Nâng cao ý thức trách nhiệm cá nhân trong việc sử dụng AI, đặc biệt trong việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức học thuật, trung thực và sáng tạo trong học tập. Học cách kiểm tra, phản biện và xác thực thông tin do AI cung cấp thay vì sử dụng một cách thụ động.
Tài liệu tham khảo:
1. Bùi Trọng Tài, Nguyễn Minh Tuấn (2024). Nghiên cứu ảnh hưởng của trí tuệ nhân tạo trong giáo dục tới hoạt động học tập của sinh viên. Tạp chí Giáo dục, 24(10), 6-11
2. Lê Anh Vinh, Trần Mỹ Ngọc (2024). Tác động của Trí tuệ nhân tạo (AI) đối với hệ thống giáo dục toàn cầu và giáo dục Việt Nam. Tạp chí Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 5/2024.
3. Quốc Anh (2025). Trí tuệ nhân tạo (AI) vào trường học: Thách thức và cơ hội. https://giaoducthoidai.vn/tri-tue-nhan-tao-ai-vao-truong-hoc-thach-thuc-va-co-hoi-post730208.html.
4. Russell, S., & Norvig, P. (2016). Artificial Intelligence: A Modern Approach (3rd ed.). Pearson Education.
5. Luckin, R., Holmes, W., Griffiths, M., & Forcier, L. B. (2016). Intelligence unleashed: An argument for AI in education. Pearson.
6. Alenezi, M. (2021). Deep Dive into Digital Transformation in Higher Education Institutions. Education Sciences, 11(12), 770. https://doi.org/10.3390/educsci11120770
7. OECD. (2023). Artificial Intelligence in Education: Promises and Implications for Teaching and Learning. OECD Publishing. https://www.oecd.org/education/ai-in-education/.
8. UNESCO. (2022). AI and Education: Guidance for Policy-makers. United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization. https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000376709.