TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Cuộc cách mạng tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả đối với hệ thống chính trị nói chung và bộ máy hành chính nói riêng từ trung ương đến địa phương đang diễn ra mạnh mẽ, tạo ra những biến động chưa từng có về tổ chức. Một lượng lớn tài sản công dôi dư từ trụ sở làm việc, đất đai đến trang thiết bị nằm ngoài nhu cầu sử dụng thực tế của bộ máy sau sáp nhập, đặt ra yêu cầu cấp bách về cách thức xử lý và tái cơ cấu những tài sản công dư thừa này sao cho tránh lãng phí, đồng thời biến chúng thành nguồn lực phục vụ phát triển. Bài viết góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản, đánh giá thực trạng, qua đó khuyến nghị các giải pháp chính sách xử lý và tái cơ cấu tài sản công hiệu quả bằng tư duy phát triển bền vững trong bối cảnh mới.
Từ khoá: Tài sản công, phát triển bền vững, chính sách.
1. Đặt vấn đề
Phát triển bền vững đòi hỏi sự kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường trong mọi quyết sách. Áp dụng tinh thần này vào quản lý tài sản công đồng nghĩa với việc khai thác tối đa giá trị của tài sản phục vụ tăng trưởng kinh tế, đồng thời, bảo đảm lợi ích xã hội và giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường. Phát triển kinh tế – xã hội bền vững đòi hỏi mọi nguồn lực phải được sử dụng hiệu quả hơn, theo đó, những nơi, những chỗ có nguồn lực, như: đất đai bị bỏ hoang, cần làm rõ trách nhiệm, đồng thời kiên quyết thu hồi nếu dự án sử dụng đất chậm trễ để tránh thất thoát tài sản Nhà nước. Tài sản công phải được quản lý chặt chẽ, không để lãng phí là tinh thần cốt lõi của phát triển bền vững.
2. Một số vấn đề lý luận chung về phát triển bền vững trong quản lý và cơ cấu tài sản công
Phát triển bền vững (phát triển bền vững) là quan điểm phát triển mang tính toàn cầu, lần đầu được định nghĩa trong Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21) tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất (Rio de Janeiro, 1992). Theo đó, phát triển bền vững là “sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”1. Định nghĩa này đã được luật pháp Việt Nam cụ thể hóa tại khoản 4 Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, xác định phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Phát triển bền vững dựa trên ba trụ cột cơ bản:
(1) Bền vững về kinh tế. Tăng trưởng kinh tế ổn định, an toàn và chất lượng, bảo đảm nâng cao thu nhập bình quân đầu người và hiệu suất của nền kinh tế. Một nền kinh tế bền vững phải duy trì được nhịp độ tăng trưởng hợp lý trong dài hạn, không đánh đổi sự ổn định tương lai lấy lợi ích trước mắt.
(2) Bền vững về xã hội. Bảo đảm công bằng xã hội và phát triển con người, thể hiện qua việc cải thiện các chỉ số phát triển con người (HDI), bao gồm: thu nhập, giáo dục, sức khỏe, phúc lợi văn hóa. Phát triển phải hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi tầng lớp nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và giữ vững ổn định xã hội.
(3) Bền vững về môi trường. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống. Điều này đòi hỏi hạn chế tối đa ô nhiễm, suy thoái môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và ưu tiên tái sử dụng, tái chế trong các hoạt động phát triển.
Ba trụ cột trên có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại và cùng quyết định tính bền vững tổng thể. Quan điểm phát triển bền vững của Đảng luôn nhấn mạnh việc kết hợp hài hòa ba mặt: phát triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) khẳng định: phát triển bền vững là mục tiêu xuyên suốt, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với văn hóa, xã hội và môi trường trong thời kỳ mới2.
Tài sản công là những tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: từ trụ sở, công trình công cộng, kết cấu hạ tầng đến đất đai, tài nguyên, ngân sách, vốn nhà nước… Việc quản lý, khai thác, sử dụng tài sản công ở Việt Nam phải bảo đảm các nguyên tắc: công khai, minh bạch, hiệu quả, tiết kiệm, đúng pháp luật. Đây chính là những yêu cầu nền tảng để bảo đảm tính bền vững trong quản trị tài sản công.
Áp dụng tư duy phát triển bền vững vào xử lý và tái cơ cấu tài sản công cần quán triệt một số quan điểm chủ đạo sau:
Một là, tài sản công là nguồn lực phát triển quan trọng chứ không đơn thuần là phương tiện phục vụ bộ máy. Trong bối cảnh mới, tài sản công dư thừa cần được xem xét như “vốn liếng” có thể chuyển hóa thành nguồn lực tài chính hoặc phục vụ các mục tiêu phát triển khác. Quan điểm này đòi hỏi đổi mới nhận thức: từ chỗ coi tài sản công dôi dư là gánh nặng (cần bảo trì, trông coi tốn kém) sang coi đó là cơ hội để tạo ra giá trị mới nếu biết khai thác. Tuy nhiên, việc khai thác phải tuân thủ nguyên tắc “đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng quy định”, tức là không vì chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà vi phạm quy hoạch hoặc gây mất cân bằng xã hội.
Hai là, kết hợp hài hòa các mục tiêu kinh tế – xã hội – môi trường trong xử lý tài sản công. Mỗi quyết định tái cơ cấu tài sản công (bán, thanh lý, chuyển giao, chuyển đổi mục đích…) cần được đánh giá trên cả ba phương diện: hiệu quả kinh tế (giá trị thu được, chi phí tiết kiệm), tác động xã hội (đáp ứng nhu cầu cộng đồng, ảnh hưởng tới cán bộ, người dân liên quan) và yếu tố môi trường (tác động cảnh quan, khả năng tái sử dụng hạ tầng, giảm rác thải xây dựng). Đây là cách tiếp cận “tuần hoàn” phù hợp xu hướng kinh tế tuần hoàn và đô thị bền vững trên thế giới.
Ba là, bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong mọi khâu xử lý tài sản công. Tài sản công thuộc về toàn dân, do đó việc quản lý, sắp xếp lại phải được thông tin rộng rãi, chịu sự giám sát của Nhân dân. Điều này giúp ngăn chặn nguy cơ “nhóm lợi ích” trục lợi hoặc tài sản công bị “biến tướng” thành tài sản tư bất minh. Thực hành minh bạch – kết hợp với thanh tra, kiểm tra thường xuyên là nguyên tắc bất di bất dịch để quản trị tài sản công bền vững. Đi đôi với minh bạch là yêu cầu quy trách nhiệm rõ ràng: mỗi tài sản công bị lãng phí phải có cá nhân, đơn vị chịu trách nhiệm trước pháp luật, như tinh thần Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh tại Quốc hội:“phải có người chịu trách nhiệm cho tài sản Nhà nước lãng phí”3.
Bốn là, phát huy vai trò của Nhà nước và sự tham gia của các bên liên quan. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong định hướng, ban hành chính sách, luật pháp về quản lý tài sản công. Nhà nước phải xây dựng khung pháp lý đồng bộ, ổn định để việc xử lý tài sản công có cơ sở triển khai thống nhất trên cả nước, đồng thời thiết lập các cơ chế giám sát hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho sự tham gia của các bên liên quan khác, như:
(1) Khu vực tư nhân, tham gia khai thác tài sản công dư thừa thông qua đấu giá mua tài sản, thuê tài sản hoặc hợp tác công tư (PPP). Sự tham gia của họ giúp huy động nguồn lực tài chính và ý tưởng để phát triển những tài sản này theo hướng sinh lợi và hữu ích.
(2) Cộng đồng người dân, tổ chức xã hội có tiếng nói quan trọng trong quyết định tái sử dụng một tài sản công tại địa phương. Khi người dân được tham gia và giám sát, việc sử dụng lại tài sản công sẽ phù hợp hơn với nhu cầu thực tiễn và tăng tính đồng thuận xã hội.
(3) Các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể có thể được giao tiếp nhận một số cơ sở công sản để làm trụ sở hoạt động, trung tâm đào tạo, sinh hoạt cộng đồng… nếu phù hợp. Điều này giúp giảm gánh nặng ngân sách, đồng thời tận dụng được tài sản sẵn có.
3. Thực trạng xử lý, cơ cấu lại tài sản công sau sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tại Việt Nam
Việc sắp xếp lại bộ máy và đơn vị hành chính những năm qua đã bước đầu đạt được những kết quả nhất định trong xử lý tài sản công dư thừa. Theo thống kê của Bộ Tài chính (tính đến cuối năm 2024), cả nước đã rà soát phát hiện 11.034 cơ sở nhà, đất, trụ sở không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả, trong đó 3.780 cơ sở đã có quyết định xử lý của cấp có thẩm quyền. Như vậy, khoảng 34% số cơ sở dôi dư đã được đưa vào phương án xử lý (bán, điều chuyển, chuyển mục đích, thanh lý…). Đây là con số đáng khích lệ cho thấy, các địa phương và bộ, ngành đã chủ động xử lý, giải quyết vấn đề.
Một số địa phương đã triển khai nhiều mô hình sáng tạo, hiệu quả để tái sử dụng những tài sản dư thừa này, biến “của thừa” thành “của hữu ích”. Điển hình ở một số địa phương, như: tỉnh Quảng Ninh sau đợt sáp nhập xã năm 2019 đã tích cực xử lý trụ sở xã. Nhiều trụ sở xã cũ được giao về cho UBND cấp huyện quản lý và tạm thời sử dụng làm điểm sinh hoạt cộng đồng, nhà văn hóa thôn/xã cho người dân địa phương; thành phố Hải Phòng đã mạnh dạn đi tiên phong chuyển đổi công năng một số trụ sở hành chính không còn phù hợp, di dời trụ sở thành phố sang địa điểm mới, toàn bộ khu nhà cũ được cải tạo để trở thành bảo tàng thành phố và không gian sáng tạo trẻ. Đây là mô hình “một địa điểm, hai công năng”, ban ngày hoạt động như bảo tàng giới thiệu về lịch sử Hải Phòng, buổi tối không gian được các nhóm nghệ thuật, khởi nghiệp thuê tổ chức sự kiện, triển lãm nhỏ. Còn ở Đà Nẵng, sau khi Trung tâm Hành chính mới của thành phố Đà Nẵng đi vào hoạt động (năm 2014), nhiều trụ sở cũ của các sở, ngành trên địa bàn đã cho đấu giá quyền sử dụng hoặc cho thuê dài hạn để thu hút doanh nghiệp vào làm văn phòng, khách sạn. Đồng thời, giữ lại một tòa nhà lớn để thành lập không gian làm việc chung nhằm ươm tạo khởi nghiệp.
Tuy vậy, bên cạnh những điểm sáng, công tác xử lý tài sản công dư thừa vẫn bộc lộ nhiều tồn tại, hạn chế khiến kết quả chung chưa đạt kỳ vọng. Tình trạng nhiều tài sản công bị bỏ hoang, xuống cấp do chậm được xử lý. Theo báo cáo Bộ Nội vụ năm 2023, nhiều trụ sở làm việc ở huyện, xã bị bỏ trống hoặc sử dụng cầm chừng sau sáp nhập. Ví dụ, tại một số huyện sau sáp nhập, công chức vẫn phải chia nhau làm việc ở 2 – 3 trụ sở cũ vì khoảng cách xa hoặc số nhân sự đông không gộp lại được. Không ít trụ sở xã cũ không được dùng đến nữa thì cửa đóng then cài, không ai trông coi, chỉ sau một thời gian ngắn đã xuống cấp, hư hỏng.
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do khó khăn trong bố trí, sắp xếp sử dụng ngay tài sản dôi dư. Ở nhiều nơi, trụ sở cũ có vị trí xa trung tâm đơn vị mới (như nằm ở địa bàn rìa xã mới), nên nếu giữ làm điểm phục vụ dân thì người dân đi lại không thuận tiện. Ngược lại, nếu muốn chuyển giao cho các sở, ngành khác dùng cũng không phù hợp chuyên môn (ví dụ bàn giao trường tiểu học cũ cho công an xã dùng là không phù hợp). Ngoài ra, do chưa có phương án khả thi nên địa phương tạm để không chờ hướng dẫn hoặc chờ có nguồn kinh phí cải tạo.
Một số nơi chưa thực sự quyết liệt, còn lúng túng trong xử lý tài sản công dôi dư. Tư tưởng “của công vô chủ” dẫn đến việc chậm báo cáo, chậm đề xuất phương án. Cá biệt có nơi, sau sáp nhập xã/huyện không chọn một trong các trụ sở hiện có làm trụ sở mới mà lại xin xây mới hoàn toàn, trong khi các trụ sở cũ bỏ không. Đây là tư duy lãng phí cần phê phán, đi ngược chủ trương tận dụng tài sản hiện hữu. Việc xây mới làm phình to ngân sách và bỏ phí tài sản cũ, khiến bài toán xử lý càng thêm nan giải.
Công tác thanh lý, bán đấu giá tài sản công dư thừa cũng gặp nhiều vướng mắc. Theo phản ánh, không ít trụ sở, nhà đất dôi dư ở vị trí không hấp dẫn (vùng xa, kinh tế kém phát triển) nên giá trị thị trường thấp, khó tìm người mua. Một số tài sản tuy ở khu vực có tiềm năng nhưng do không còn nằm ở trung tâm hành chính (vì địa giới thay đổi) hoặc công năng đặc thù nên nhà đầu tư không mặn mà vì phải cải tạo nhiều. Chính sự bất hợp lý về kinh tế này làm nhiều phiên đấu giá không có người tham gia. Thêm vào đó, thủ tục bán đấu giá tài sản công còn tương đối phức tạp, kéo dài, phải định giá, phê duyệt phương án, tổ chức đấu giá, dẫn đến chậm thu hồi vốn.
Bên cạnh những kết quả bước đầu đáng ghi nhận như hoàn thiện khung pháp lý, xác định được hàng vạn tài sản dư thừa và vài mô hình tái sử dụng sáng tạo, bức tranh thực trạng vẫn nổi lên gam màu xám, như: lãng phí, kém hiệu quả còn khá phổ biến trong quản lý tài sản công hậu sáp nhập. Nhiều rào cản về thể chế, thị trường và nhận thức khiến công tác này chưa phát huy được tiềm năng. Đây chính là lý do chúng ta cần những giải pháp đột phá, toàn diện hơn theo tinh thần phát triển bền vững để khắc phục tồn tại, đưa tài sản công thực sự trở thành động lực cho phát triển.
4. Một số giải pháp quản lý, cơ cấu lại tài sản công vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước
Xuất phát từ những vấn đề thực trạng đã phân tích và định hướng lý luận đã đề ra, hệ thống giải pháp cần triển khai phải bảo đảm vừa trực diện giải quyết được những tồn tại, vừa mang tầm nhìn dài hạn phù hợp tư duy phát triển bền vững.
Thứ nhất, đổi mới nhận thức và lý luận về tài sản công như một nguồn lực phát triển.
Cần tuyên truyền để mọi cấp, mọi ngành thống nhất nhận thức, tài sản công không chỉ là của để dùng mà còn là của để đầu tư phát triển. Mỗi mét vuông đất công, mỗi tòa nhà trụ sở, mỗi tài sản nhà nước dư thừa đều hàm chứa một giá trị kinh tế – xã hội nhất định nếu biết khai thác sẽ trở thành nguồn lực quý báu. Do đó, xử lý tài sản công không nên bị coi là công việc phụ sau sáp nhập mà phải xem là một nhiệm vụ trọng tâm gắn liền với mục tiêu phát triển bền vững của địa phương, đơn vị. Các cấp ủy và chính quyền cần quán triệt sâu sắc tinh thần các chỉ đạo của Đảng; chống lãng phí tài sản công chính là chống lại sự tụt hậu và mất mát nguồn lực quốc gia.
Cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung để hoàn thiện cơ sở khoa học cho việc tái cơ cấu tài sản công. Các viện nghiên cứu, trường đại học nên tham mưu xây dựng đề án chiến lược quốc gia về quản lý tài sản công bền vững, trong đó đưa ra các mô hình tối ưu, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản công (ví dụ: tỷ lệ tài sản công nhàn rỗi trên tổng tài sản công, cần ở mức dưới bao nhiêu phần trăm). Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công cũng nên được rà soát, điều chỉnh phù hợp thực tiễn mới (như thay đổi tiêu chuẩn trụ sở khi sáp nhập nhiều đơn vị).
Cần thay đổi tư duy từ “quản lý cho không hỏng” sang “quản lý để sinh lợi ích”. Tài sản công dôi dư không thể giữ thái độ cất kho cho an toàn mà phải suy nghĩ cách đưa vào vận hành, thậm chí chấp nhận rủi ro thị trường có tính toán. Chẳng hạn, có thể cho doanh nghiệp thuê mặt bằng tạm thời 3 – 5 năm nếu họ sử dụng tốt thì xã hội được lợi, nếu không thì sau 5 năm vẫn thu hồi lại được. Tư duy năng động, dám nghĩ dám làm này cần được khuyến khích trong đội ngũ cán bộ quản lý tài sản công, thay vì tâm lý sợ sai, sợ mất mà không làm gì. Đương nhiên, cơ chế bảo vệ cán bộ “dám đổi mới, sáng tạo vì lợi ích chung” cũng cần có để họ an tâm triển khai.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế linh hoạt và chính sách đặc thù.
Sớm ban hành các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định số 50/2025/NĐ-CP ngày 03/3/2025 của Chính phủ và các nghị định mới liên quan. Các bộ (Tài chính, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường) cần phối hợp ban hành thông tư liên tịch hoặc hướng dẫn thống nhất về quy trình xử lý tài sản công dôi dư sau sáp nhập. Trong đó, làm rõ thẩm quyền phê duyệt phương án ở mỗi cấp, biểu mẫu hồ sơ xử lý tài sản, thời hạn thực hiện,… tránh tình trạng địa phương lúng túng về thủ tục.
Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho một số địa phương thí điểm. Chẳng hạn, có thể chọn một số tỉnh vùng khó khăn (nơi nhiều tài sản dư nhưng khó đấu giá) để thí điểm cơ chế “chuyển nhượng có điều kiện”, cho phép tỉnh thỏa thuận bán tài sản công dư cho nhà đầu tư chiến lược với giá ưu đãi kèm điều kiện họ phải sử dụng tài sản đó vào mục tiêu phát triển địa phương (như mở trường dạy nghề miễn phí 5 năm, lập trung tâm văn hóa tư nhân phục vụ dân…). Cơ chế đặc thù này, nếu được Quốc hội cho phép thí điểm sẽ mở ra lối ra cho những tài sản mà bán khó, giữ cũng khó.
Điều chỉnh các quy định về đấu giá tài sản công theo hướng linh hoạt hơn. Ví dụ, luật hiện hành quy định bán nhà đất công phải bán cả cụm, không chia lẻ; nhưng thực tế có những khu rất lớn, ít nhà đầu tư kham nổi toàn bộ. Nên chăng xem xét cho phép chia thành các lô hợp lý để đấu giá từng phần, miễn là bảo đảm công khai, không bán chỉ định. Hoặc có thể quy định nếu đấu giá 2 – 3 lần không thành công thì được phép chuyển phương thức (sang chỉ định hoặc chuyển mục đích sử dụng khác) để tránh tình trạng “treo” mãi.
Hoàn thiện chính sách khuyến khích tái sử dụng, cải tạo tài sản công. Hiện nay, nếu một doanh nghiệp thuê tài sản công để cải tạo làm dịch vụ công cộng (ví dụ thuê một nhà văn hóa cũ làm rạp chiếu phim kết hợp thư viện), cần có chính sách ưu đãi như giảm tiền thuê trong những năm đầu, hoặc hỗ trợ tín dụng ưu đãi để họ sửa chữa công trình theo hướng bảo tồn. Ngược lại, với những trường hợp thuê tài sản công chỉ để kinh doanh thương mại thu lợi, cần có cơ chế điều tiết phần siêu lợi nhuận về ngân sách (ví dụ, nếu lợi nhuận cao bất thường sẽ tăng tỷ lệ phân chia với nhà nước).
Hoàn thiện pháp luật về phân cấp, phân quyền trong quản lý tài sản công nên mạnh dạn giao quyền chủ động nhiều hơn cho địa phương trong xử lý tài sản công trên địa bàn. Hiện nay, nhiều tài sản do bộ ngành quản lý nhưng nằm ở địa phương, sau sáp nhập địa phương muốn sử dụng lại phải chờ bộ đồng ý. Do đó, có thể nghiên cứu sửa luật theo hướng: sau sáp nhập, tài sản dôi dư được ưu tiên giao cho chính quyền cấp tỉnh quản lý. Khi địa phương làm chủ, sẽ năng động hơn trong tìm cách sử dụng. Tương ứng, trung ương tăng cường giám sát vĩ mô thay vì ôm xử lý từng trụ sở.
Thứ ba, tăng cường quản lý nhà nước, ứng dụng công nghệ và minh bạch hóa quá trình chuyển giao.
Cần xây dựng năng lực chuyên trách về quản lý tài sản công. Hiện nay, Cục Quản lý công sản (Bộ Tài chính) và phòng quản lý công sản (ở Sở Tài chính) là đầu mối nhưng đội ngũ mỏng và kiêm nhiệm nhiều việc. Đề xuất thành lập các tổ công tác liên ngành (Tài chính, Nội vụ, Xây dựng, Nông nghiệp và Môi trường) tại mỗi địa phương trọng điểm để dồn lực xử lý tài sản công dư thừa trong giai đoạn 2023-2030. Tổ này theo dõi sát quá trình sắp xếp bộ máy, chủ động tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh phương án cho từng tài sản, tránh để kéo dài.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong quản lý tài sản công. Cần sớm hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công và kết nối liên thông giữa trung ương – địa phương. Mọi tài sản công, đặc biệt là nhà đất phải có mã định danh và hồ sơ số hóa (vị trí, diện tích, hiện trạng pháp lý, giá trị sổ sách…). Khi có quyết định sáp nhập, hệ thống sẽ tự động liệt kê các tài sản liên quan, giúp cơ quan quản lý không bỏ sót. Đồng thời, triển khai các nền tảng trực tuyến để công khai danh mục tài sản công cần xử lý. Ví dụ, có một website mà người dân, doanh nghiệp có thể xem danh mục tất cả trụ sở, đất công dư thừa đang chờ phương án trên cả nước, kèm thông tin liên hệ nếu quan tâm đầu tư. Việc đấu giá tài sản công trực tuyến cũng cần mở rộng, học tập kinh nghiệm Hàn Quốc để vừa minh bạch vừa tăng đối tượng tham gia, kể cả nhà đầu tư nước ngoài.
Minh bạch hóa và tăng cường giám sát toàn bộ quá trình xử lý, chuyển giao tài sản công. Mỗi địa phương nên công bố báo cáo định kỳ về tình hình xử lý tài sản công (6 tháng hoặc hằng năm) trước Hội đồng nhân dân và Nhân dân. Nội dung gồm số lượng tài sản dư thừa đã xử lý được bao nhiêu, hình thức gì, số thu nộp ngân sách bao nhiêu, cái nào còn vướng mắc… Báo cáo này có thể xem như một phần của báo cáo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Mặt khác, cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các cơ quan thanh tra, kiểm toán trong giám sát độc lập. Kiểm toán Nhà nước nên đưa nội dung quản lý tài sản công (đặc biệt ở những nơi sáp nhập nhiều) vào chương trình kiểm toán hằng năm. Thanh tra Chính phủ và thanh tra bộ, ngành cũng cần tăng cường thanh tra đột xuất nếu có dấu hiệu bất thường (ví dụ một tài sản định giá quá thấp, hay một địa phương xây trụ sở mới khi trụ sở cũ còn tốt). Qua giám sát, những vi phạm (như cố ý làm trái quy định khi bán tài sản công hay trì hoãn bàn giao tài sản cũ) phải được xử lý nghiêm minh, làm gương răn đe. Mới đây Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị phê bình 7 bộ, ngành có trụ sở mới nhưng chậm bàn giao trụ sở cũ, những động thái quyết liệt này cần tiếp tục duy trì để mọi đơn vị có ý thức chấp hành.
Áp dụng các công cụ quản lý hiện đại như đánh giá tác động, phân tích chi phí, lợi ích cho các quyết định xử lý tài sản lớn. Ví dụ, khi tỉnh định phá bỏ một trụ sở lớn để bán đất, cần có báo cáo đánh giá: chi phí phá dỡ, tổn thất tài sản cố định, thu được bao nhiêu, mất đi cơ hội gì (ví dụ mất một tòa nhà có thể cải tạo làm bệnh viện tư)… trên cơ sở đó xin ý kiến rộng rãi trước khi quyết. Việc này bảo đảm quyết định đưa ra là tối ưu, tránh những sai lầm không thể đảo ngược (như bán rẻ đất vàng rồi sau thiếu đất công xây trường học,…).
Thứ tư, đẩy mạnh xã hội hóa, chuyển đổi công năng tài sản công phục vụ các lĩnh vực sáng tạo, văn hóa, giáo dục, khởi nghiệp.
Xã hội hóa quản lý, khai thác tài sản công. Thay vì Nhà nước tự đầu tư, khai thác mọi tài sản dư thừa (rất tốn kém), cần thu hút các nguồn lực xã hội tham gia. Có thể dưới dạng hợp tác công tư (PPP), ví dụ, một nhà đầu tư đề xuất cải tạo khu nhà công cũ thành trung tâm đào tạo nghề; chính quyền hỗ trợ thủ tục và cho thuê ưu đãi, nhà đầu tư bỏ vốn làm và thu phí dịch vụ đào tạo trong một thời gian. Hoặc hình thức đấu thầu thuê vận hành, như cho các công ty quản lý bất động sản thuê khu ký túc xá cũ để vận hành thành nhà ở xã hội có thu phí. Xã hội hóa giúp giảm gánh nặng ngân sách, đồng thời đưa tư duy kinh doanh vào khai thác tài sản công, nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, xã hội hóa phải đi đôi với kiểm soát mục tiêu công ích, nghĩa là tuy giao tư nhân làm nhưng mục đích phục vụ cộng đồng của tài sản phải giữ, tránh vì lợi nhuận mà biến dạng. Muốn vậy, hợp đồng phải quy định chặt (tỷ lệ thời gian phục vụ miễn phí, mức giá trần dịch vụ…).
Chuyển đổi công năng sang các lĩnh vực sáng tạo, văn hóa, giáo dục. Rất nhiều tài sản công dư thừa có thể tái sinh trong vai trò mới ở các lĩnh vực xã hội đang cần không gian. Chẳng hạn, một thư viện tỉnh cũ (vừa sáp nhập với bảo tàng) dư tòa nhà, có thể chuyển thành Trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho thanh niên. Ở đó, các phòng đọc có thể thành nơi làm việc mở, hội trường làm nơi tổ chức diễn đàn khởi nghiệp. Hay một nhà khách công vụ ít sử dụng có thể giao cho Hội Văn học nghệ thuật địa phương làm Trung tâm sáng tác để các nghệ sĩ có chỗ sáng tác, trưng bày tác phẩm.
Một số quốc gia áp dụng hướng đi này thành công, như: thành phố Hàng Châu (Trung Quốc) đã biến một kho thóc cũ thành “Dream Town” – trung tâm khởi nghiệp từ năm 2015, hiện là nơi hoạt động của 1.400 mô hình khởi nghiệp với sự hỗ trợ của chính quyền. Việt Nam hoàn toàn có thể có những “Dream Town” tương tự từ các cơ sở công dôi dư. Ngành Giáo dục cũng có nhu cầu lớn nên có thể cải tạo trụ sở hành chính cũ thành trường mầm non, nhà trẻ (rất thiếu ở các đô thị); cải tạo trung tâm y tế huyện cũ thành cơ sở điều dưỡng cho người cao tuổi (hình thức xã hội hóa)…
Phát triển các không gian văn hóa, sáng tạo từ nguồn tài sản công dôi dư. Hướng tới mục tiêu nâng cao đời sống tinh thần cho người dân (trụ cột xã hội của phát triển bền vững); các địa phương nên ưu tiên dành một số tài sản công dư thừa làm thiết chế văn hóa. Ví dụ, các nhà văn hóa xã, huyện bị dôi dư có thể chuyển cho các đoàn thể (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ) quản lý làm nhà sinh hoạt cộng đồng, câu lạc bộ thanh thiếu nhi. Ở thành phố, những khu xưởng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước không còn hoạt động có thể phối hợp biến thành trung tâm nghệ thuật đương đại, không gian sáng tạo, tương tự, như: mô hình Zone 9 trước đây ở Hà Nội hay Factory Contemporary Arts Centre ở TP. Hồ Chí Minh. Những không gian này vừa tận dụng được kiến trúc công nghiệp cũ, vừa tạo điểm nhấn văn hóa mới, thu hút giới trẻ và khách du lịch, qua đó còn gián tiếp thúc đẩy kinh tế sáng tạo.
Khuyến khích mô hình “vườn ươm” trong sử dụng tài sản công. Nhà nước có thể thiết lập các vườn ươm doanh nghiệp, trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp ngay trong các tài sản công chưa sử dụng. Đây là sự đầu tư cho tương lai, hỗ trợ thế hệ doanh nhân mới (trụ cột kinh tế – xã hội) như các mô hình ở Đà Nẵng đã thành công và nhân rộng mô hình này ở các tỉnh, thành phố khác (ví dụ dùng một phần trụ sở tỉnh cũ sau khi hợp nhất tỉnh thành vườn ươm khu vực). Điều đó thể hiện tư duy phát triển bền vững: lấy của cải hôm nay tạo nền tảng cho ngày mai. Ngoài ra, để hỗ trợ các sáng kiến đổi mới, sáng tạo Chính phủ xem xét lập Quỹ phát triển công sản bền vững. Quỹ này dùng một phần tiền thu được từ đấu giá tài sản công để tái đầu tư cho những dự án cải tạo tài sản công mang tính phi lợi nhuận (như cải tạo thành công viên, thư viện). Nhờ đó, việc bán tài sản công không đơn thuần là đưa tiền vào ngân sách chung mà một phần được tái đầu tư cho chính lĩnh vực tài sản công theo hướng phát triển bền vững hơn.
5. Kết luận
Trong bối cảnh chuyển mình mạnh mẽ của bộ máy và nền kinh tế, tư duy phát triển bền vững đã và đang khẳng định vai trò định hướng chiến lược trong mọi lĩnh vực, trong đó có quản lý, xử lý tài sản công. Tư duy bền vững đòi hỏi tiếp cận một cách hệ thống, dài hạn và đa mục tiêu, không chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà bỏ qua giá trị xã hội, môi trường; ngược lại, cũng không vì e ngại rủi ro mà để lãng phí nguồn lực. Xử lý và tái cơ cấu tài sản công không đơn thuần là bài toán kỹ thuật mà là bài toán phát triển đòi hỏi tầm nhìn và bản lĩnh. Với tư duy phát triển bền vững, nguồn tài sản công đồ sộ tích lũy qua nhiều thế hệ sẽ được kế thừa, phát triển một cách xứng đáng, trở thành bệ phóng cho tương lai và đóng góp vào sự phồn vinh bền vững của đất nước.
Chú thích:
1, 2. Phát triển bền vững ở Việt Nam. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/2018/25248/phat-trien-ben-vung-o-viet-nam.aspx.
3. Tổng Bí thư Tô Lâm: Phải có người chịu trách nhiệm cho tài sản nhà nước lãng phí. https://www.baogiaothong.vn/tong-bi-thu-to-lam-phai-co-nguoi-chiu-trach-nhiem-cho-tai-san-nha-nuoc-lang-phi-192241026185211648.htm.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
2. Chính phủ (2017). Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 về sắp xếp lại, xử lý tài sản công là nhà, đất.
3. Chính phủ (2017). Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
4. Chính phủ (2024). Nghị định số 114/2024/NĐ-CP ngày 15/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.
5. Chính phủ (2025). Nghị định số 50/2025/NĐ-CP ngày 28/02/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn Luật Quản lý, sử dụng tài sản công.
6. Quốc hội (2017). Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017.
7. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2019). Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 về sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, xã giai đoạn 2019 – 2021.