ThS. Trương Thị Thanh Thùy
Học viện Chính trị khu vực II
(Quanlynhanuoc.vn) – Việt Nam đang trong quá trình điều chỉnh cơ chế, chính sách theo hướng chú trọng tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển bền vững. Việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn là một trong những cơ hội chủ yếu để hiện thực hóa mục tiêu trên. Trước bối cảnh đó, dựa trên thể chế cấp quốc gia, TP. Hồ Chí Minh đang tích cực hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn cấp địa phương. Thành phố đang thực hiện quy hoạch TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó xây dựng và tích hợp phương án phát triển kinh tế tuần hoàn thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và phương án phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Bài viết nghiên cứu lý luận về thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn cấp địa phương, phân tích thực trạng thể chế kinh tế tuần hoàn của Thành phố, đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Thể chế, kinh tế tuần hoàn, TP. Hồ Chí Minh, cấp địa phương.
1. Cơ sở lý luận về thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn cấp địa phương
(1) Thể chế kinh tế
Adam Smith được nhắc đến là một trong những người khởi xướng kinh tế học cổ điển với lý thuyết “Bàn tay vô hình” với đề cao vai trò tuyệt đối của các quy luật thị trường đã trở thành nền tảng cho việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường vận hành tự do, hạn chế tối đa mức can thiệp của nhà nước. Tiếp nối quan niệm của kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh, C. Mác đã nghiên cứu toàn diện về thể chế kinh tế và các thể chế liên quan khác. Những công trình của C. Mác tập trung vào nghiên cứu về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (đặc biệt là của chế độ sở hữu và chế độ phân phối), về mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Bằng những lý luận của mình, C. Mác và Ph. Ăngghen phê phán tính tự phát của thị trường, đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của nhà nước với tư cách một thiết chế chính trị quan trọng đưa ra những định hướng trong việc thiết lập và thực thi các thể chế. Kế thừa hệ thống lý luận Mác-xít về kinh tế, V.I. Lênin vận dụng sáng tạo vào thực tiễn nền kinh tế nước Nga – Xô Viết, đặc biệt thể hiện qua “chính sách kinh tế mới”. Với chính sách này, V.I. Lênin cho thấy, các thể chế kinh tế cần được xây dựng phù hợp với từng lộ trình, bối cảnh phát triển của nền kinh tế.
Kinh tế học thể chế mới (New Institutional Economics) là một trường phái kinh tế học hiện đại, tập trung nghiên cứu các thể chế, tức là những quy ước xã hội, quy định pháp lý và các chuẩn mực không chính thức, nhằm hiểu rõ cách chúng tác động đến hành vi kinh tế và sự phát triển kinh tế trong dài hạn. Ronald Coase (1937) là người đặt nền móng cho trường phái kinh tế này với lý thuyết về chi phí giao dịch (The Problem of Social Cost), ông đưa ra khái niệm chi phí giao dịch và chứng minh chúng tác động không nhỏ đến việc phân bổ tài nguyên trong nền kinh tế. Đồng thời khẳng định, các chi phí phát sinh có vai trò quyết định trong việc tổ chức các hoạt động kinh tế. Cũng theo trường phái này, Douglass North đã mở rộng bằng cách cho rằng, các thể chế, bao gồm cả chính thức (luật pháp, quy định) và phi chính thức (truyền thống, chuẩn mực), đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế. Các nghiên cứu chỉ ra, sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào tài nguyên hoặc công nghệ và vào tính hiệu quả của các thể chế trong việc giảm chi phí giao dịch, từ đó, tạo động lực cho các hoạt động kinh tế.
Đến cuối những năm thế kỷ XX, Elinor O. (1990) bổ sung thêm thể chế không chỉ là “luật chơi” mà còn liên quan đến cách các quy tắc được thiết lập, duy trì và thực thi, bao gồm cả việc xác định quyền lợi, trách nhiệm và hình thức xử phạt. Greif (2006) mở rộng khái niệm này bằng cách nhấn mạnh vai trò của các niềm tin và tổ chức trong việc phối hợp các hành vi của cá nhân và xã hội. Kinh tế học thể chế mới kết hợp các yếu tố thể chế vào phân tích kinh tế, tạo ra một góc nhìn toàn diện hơn về thể chế liên quan đến phát triển kinh tế, quản trị nhà nước và tổ chức doanh nghiệp.
Joskow (2004) thể chế được phân loại thành các thể chế pháp lý, chính trị, kinh tế và xã hội. Theo cách phân loại trên, thể chế kinh tế bao gồm những quy tắc, quy định và cơ chế tổ chức điều chỉnh các hoạt động sản xuất, phân phối và tiêu dùng tài nguyên trong xã hội và được xem là một nhánh thể chế của một chế độ xã hội nhất định. Acemoglu, Johnson & Robinson (2001) đã đưa ra luận cứ chứng minh, một quốc gia có thể chế kinh tế tốt khi đảm bảo hiệu lực của các thiết chế pháp lý, môi trường kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và các quy chuẩn xã hội thân thiện.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam (2005), thể chế kinh tế không phải tự nó nảy sinh, tự điều chỉnh, tự cung cấp mà luôn luôn dựa vào khả năng tự giúp của chế độ khác và của lực lượng phi kinh tế.
Đinh Văn Ân và Lê Xuân Bá (2006) cho rằng, thể chế kinh tế là hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm các yếu tố chủ yếu là các đạo luật, quy chế, quy tắc, chuẩn mực về kinh tế gắn với các chế tài xử lý vi phạm, các tổ chức kinh tế, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, truyền thống văn hóa và văn minh kinh doanh, cơ chế vận hành nền kinh tế.
Năm 2016, Ngân hàng Thế giới (WB) và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã công bố “Báo cáo Việt Nam năm 2035”. Báo cáo này đã đưa ra định nghĩa về thể chế kinh tế, như: thể chế kinh tế là những “luật chơi” chính thức và phi chính thức ràng buộc các tương tác trong xã hội, hỗ trợ tăng trưởng và phát triển kinh tế trong dài hạn. Từ đó, có thể khái quát lại, thể chế kinh tế là một hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất – kinh doanh và các quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm 3 bộ phận: hệ thống chính sách, pháp luật và các văn bản pháp quy liên quan trong lĩnh vực kinh tế; các chủ thể tham gia vào nền kinh tế bao gồm: các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và người dân; cơ chế thực thi, bao gồm: nguồn lực để thực thi, cơ chế thưởng xứng đáng, cơ chế xử phạt nghiêm minh nhằm bảo đảm vận hành có hiệu lực và hiệu quả những chủ trương, chính sách trên.
(2) Thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn cấp địa phương
Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh tế hiện đại phù hợp với các mục tiêu phát triển bền vững của nhân loại, bao gồm: bảo vệ môi trường, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững và bảo đảm sự công bằng xã hội. Kinh tế tuần hoàn tập trung vào việc tối ưu hóa tài nguyên, giảm thiểu chất thải và tái sử dụng sản phẩm, tạo ra giá trị lâu dài trong toàn bộ chuỗi sản xuất và tiêu dùng. Để hiện thực hóa công năng của kinh tế tuần hoàn, việc xây dựng và triển khai một hệ thống thể chế toàn diện là vấn đề cấp thiết.
Tập hợp nghiên cứu từ các khái niệm nêu trên, có thể hiểu thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn là tập hợp các quy định, chính sách, cơ chế và cấu trúc tổ chức được thiết lập bởi các cơ quan nhà nước, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và cộng đồng nhằm hỗ trợ, điều phối và khuyến khích các hoạt động kinh tế bền vững theo nguyên tắc tuần hoàn tài nguyên. Thể chế này đóng vai trò kết nối giữa các chủ thể, tạo ra môi trường pháp lý, tài chính và xã hội thuận lợi, xây dựng cơ chế vận hành hiệu quả để chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang mô hình kinh tế tuần hoàn. Như vậy, dựa trên cơ sở thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn cấp quốc gia, hiện thực hóa vào điều kiện cụ thể ở cấp địa phương, thể chế thúc đẩy kinh tế tuần hoàn cấp địa phương thể hiện trên ba phương diện.
Một là, các chiến lược của địa phương trong việc phát triển kinh tế tuần hoàn (luật chơi): các chính sách và quy định cần được thiết kế phù hợp với đặc thù kinh tế, xã hội, và môi trường của thành phố hướng đến việc phát triển các khu vực đô thị bền vững.
Hai là, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành cấp địa phương (cách chơi): đóng vai trò trung tâm trong việc triển khai và điều phối các hoạt động thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm đảm bảo quyền lợi của các đối tượng tham gia và giải quyết những tranh chấp về lợi ích phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn. Chất lượng bộ máy quản lý càng cao cùng với cơ chế vận hành thông suốt thì càng tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngược lại, bộ máy quản lý trì trệ, chậm đổi mới và cơ chế vận hành kém thông suốt sẽ làm cản trở xu hướng dòng chảy phát triển của kinh tế tuần hoàn.
Ba là, vị trí, vai trò của đối tượng tham gia (người chơi): khuyến khích sự phối hợp giữa chính quyền thành phố, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân và đảm bảo sự đóng góp và lợi ích công bằng cho tất cả các bên liên quan.
2. Thực trạng thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh
(1) Hệ thống chính sách, pháp luật về kinh tế tuần hoàn ở cấp quốc gia và cấp TP. Hồ Chí Minh.
Tại Việt Nam, khái niệm kinh tế tuần hoàn được đề cập đầu tiên tại Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị và đến nay đã được cụ thế hóa thành những chính sách, pháp luật tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Theo đó, tại Điều 142 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã xác định: “Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường”. Theo đó, tính tuần hoàn trong mô hình kinh tế tuần hoàn bao gồm 5 khâu bao trùm trong dòng tài nguyên liên tục từ giai đoạn thiết kế sản phẩm, đến giai đoạn sản xuất/phân phối, tiêu thụ sản phẩm.
Xây dựng nền kinh tế tuần hoàn đã được xác định là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và được xem là yêu cầu tất yếu của phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Cụ thể hóa chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách, pháp luật liên quan đến kinh tế tuần hoàn, Chính phủ đã lồng ghép nội dung kinh tế tuần hoàn vào một số chiến lược phát triển, cụ thể: Chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030; Chiến lược quốc gia xuất, nhập khẩu. Ngày 07/6/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 687/2022/QĐ-TTg ban hành đề án phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam đánh dấu việc kinh tế tuần hoàn chính thức được hiện thực hóa một cách toàn diện với các mục tiêu cụ thể. Đề án đã đưa ra lộ trình cũng như những lĩnh vực trọng điểm trong việc phát triển kinh tế tuần hoàn. Các bộ, ngành, địa phương được giao nhiệm vụ cụ thể trong việc triển khai kinh tế tuần hoàn, từ xây dựng chính sách đến thực hiện các dự án thí điểm. Như vậy, kinh tế tuần hoàn đã từng bước nhận được sự quan tâm và chỉ đạo toàn diện của Đảng và Nhà nước với các định hướng và chủ trương được thống nhất và triển khai đồng bộ.
Tại TP. Hồ Chí Minh, kinh tế tuần hoàn được triển khai song song và giữ mối liên hệ mật thiết với kinh tế số và kinh tế chia sẻ; đồng thời yêu cầu sự tham gia của nhiều chủ thể trong hệ thống chính trị để triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, nhất là quản lý tích hợp các hoạt động kinh tế theo hướng tuần hoàn. Điều này thể hiện ở Nghị quyết số 31-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 của Bộ Chính trị yêu cầu lồng ghép phát triển kinh tế tuần hoàn vào mô hình tăng trưởng xanh, kinh tế số và đô thị thông minh.

Ngoài ra, Thành phố đã tích hợp kinh tế tuần hoàn vào quy hoạch TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 1711/QĐ-TTg ngày 31/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ) với định hướng gắn phát triển kinh tế tuần hoàn nhằm thúc đẩy mô hình tăng trưởng bền vững. Thành phố đề nghị phát triển cụm công nghiệp tầm nhìn 2045 gắn với kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành và triển khai các kế hoạch về tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn, đồng thời kiến nghị ban hành các văn bản theo thẩm quyền để tạo nền tảng, cơ sở phát triển kinh tế tuần hoàn.
Trong Đề án “Xây dựng TP. Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh” giai đoạn 2017 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030, kinh tế tuần hoàn được xem là trụ cột hỗ trợ cho mục tiêu trở thành đô thị thông minh của TP. Hồ Chí Minh thông qua việc quản lý tài nguyên hiệu quả, ứng dụng công nghệ số để góp phần giảm thiểu tác động đến môi trường, khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức tiến hành sản xuất – kinh doanh theo hướng bền vững và thân thiện với môi trường.
(2) Bộ máy quản lý, cơ chế vận hành thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh.
Việc tổ chức, sắp xếp bộ máy quản lý thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh dựa trên Quyết định số 503/QĐ-UBND ngày 18/02/2022 về phê duyệt Đề án “Phát triển kinh tế số, kinh tế chia sẻ và kinh tế tuần hoàn trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Đây là văn bản đặt nền tảng cho việc xây dựng chính sách và tổ chức bộ máy quản lý kinh tế tuần hoàn tại Thành phố. Để cụ thể hóa những nhiệm vụ liên quan đến kinh tế tuần hoàn, Thành phố ban hành Quyết định số 4645/QĐ-UBND ngày 30/12/2022 về phê duyệt Kế hoạch “Phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2023”, Kế hoạch số 2155/KH-UBND ngày 24/5/2023 của Thành phố xác định chức năng nhiệm vụ của các sở, ngành, đơn vị liên quan trong việc thực hiện những nhiệm vụ để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn thành phố. Tiếp theo, ngày 31/7/2024, Thành phố ban hành Kế hoạch số 4330/KH-UBND để cập nhật và mở rộng triển khai Đề án trong giai đoạn 2024 – 2025, tiếp tục thúc đẩy các hoạt động liên quan đến kinh tế tuần hoàn, kinh tế số và kinh tế chia sẻ trên địa bàn thành phố.
Từ ngày 01/4/2025, TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức và sắp xếp bộ máy hành chính, giảm từ 21 sở xuống còn 16 sở. Một số sở đã bị sáp nhập với mục tiêu để bộ máy tinh gọn và hiệu quả hơn. Do vậy, căn cứ vào những văn bản của Ủy ban nhân dân Thành phố nêu trên cùng với những thay đổi về cơ cấu quản lý hiện nay thì các sở, ngành, đơn vị có liên quan đến việc chỉ đạo, quản lý và điều phối các hoạt động về kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh bao gồm:
Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì trong việc ban hành và tổ chức thực hiện các hoạt động liên ngành liên quan đến kinh tế tuần hoàn.
Viện Nghiên cứu phát triển được giao là mối trong việc điều phối các hoạt động của kinh tế tuần hoàn, đồng thời thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như sau: (1) Triển khai kế hoạch phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn thành phố giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030; theo dõi, rà soát các văn bản từ cấp thẩm quyền trung ương và các chương trình liên quan để điều chỉnh, sửa đổi, cập nhật, bổ sung cho phù hợp. (2) Tổ chức hội nghị, hội thảo, chương trình đào tạo về kinh tế tuần hoàn, tiếp cận với công nghệ mới cho cán bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp. (3) Phối hợp cơ quan trung ương triển khai cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn. (4) Triển khai nghiên cứu làm cơ sở cho xây dựng chính sách, định hướng phát triển của Thành phố trong thời gian tới, như: khả năng thực thi chính sách trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, nhập khẩu (EPR) của doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực; giải pháp cải thiện chỉ số xanh cấp tỉnh (PGI) của Thành phố; khả năng triển khai mô hình dịch vụ đô thị tích hợp với hệ thống cung cấp năng lượng – thực phẩm – nước trên địa bàn Thành phố… (5) Triển khai nhiệm vụ “Đề xuất chiến lược và lộ trình thực hiện chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn đến năm 2030” thuộc Chương trình HWG giai đoạn 2.
Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm chung về quản lý tài nguyên, môi trường và đất đai; đồng thời, triển khai các mô hình nông nghiệp tuần hoàn, bao gồm tái sử dụng phụ phẩm và xử lý chất thải nông nghiệp. Sở có trách nhiệm thực hiện các hoạt động cụ thể, như sau: (1) Triển khai các hoạt động chương trình tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, giảm thiểu, thu gom, phân loại chất thải hướng tới kinh tế tuần hoàn. (2) Hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng cho kinh tế tuần hoàn, kinh doanh bền vững từ Quỹ Bảo vệ môi trường. (3) Khảo sát, đánh giá nhu cầu vay vốn với các dự án bảo vệ môi trường theo Nghị định số 08/2022/NĐ-CP trên địa bàn Thành phố. Tăng cường giới thiệu, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng từ Quỹ Bảo vệ môi trường. (4) Xây dựng và triển khai nhiệm vụ phát triển khoa học và ứng dụng, chuyển giao công nghệ thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. (5) Nghiên cứu giải pháp thu hút đầu tư thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ngành nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh trong bối cảnh liên kết vùng. (6) Xây dựng và triển khai kế hoạch điều tra, thu thập, cập nhật thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường và thu thập, cập nhật thông tin mô tả dữ liệu tài nguyên và môi trường năm 2025 và (7) Rà soát, điều chỉnh các văn bản liên quan về phương thức phân loại chất thải rắn; giá dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn, EPR, các cơ chế, chính sách hỗ trợ trong việc giảm thiểu chất thải nhựa, tăng cường tái sử dụng và tái chế chất thải nhựa… theo các hướng dẫn của cơ quan trung ương.
Sở Khoa học và công nghệ chịu trách nhiệm trong việc thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo cho kinh tế tuần hoàn. Sở có nhiệm vụ cụ thể: (1) Xây dựng tài liệu hướng dẫn các mô hình thực hành tốt kinh tế tuần hoàn; hỗ trợ đào tạo, tư vấn hoàn thiện chiến lược, thiết kế mô hình, phương án kinh doanh, giải pháp công nghệ áp dụng kinh tế tuần hoàn. (2) Hỗ trợ thực hiện các chương trình ươm tạo, tăng tốc cho các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực ưu tiên của Thành phố về kinh tế tuần hoàn.
Sở Tài chính tham mưu giải pháp đẩy mạnh mua sắm công xanh, đầu tư công xanh.
Sở Công thương thúc đẩy sản xuất sạch hơn, sản xuất các sản phẩm thân thiện môi trường, áp dụng mô hình, liên kết bền vững theo chuỗi vòng đời sản phẩm, chuỗi cung ứng tuần hoàn. Tiếp tục triển khai Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2021 – 2030.
Ban Quản lý các Khu chế xuất và công nghiệp tham gia phối hợp với Ban Quản lý dự án, tổng kết dự án triển khai khu công nghiệp sinh thái tại Việt Nam theo hướng tiếp cận từ chương trình khu công nghiệp sinh thái toàn cầu tại Khu Công nghiệp Hiệp Phước; tiếp tục hỗ trợ việc thực hiện và giám sát các cơ hội khu công nghiệp sinh thái và cộng sinh công nghiệp để chuyển đổi khu công nghiệp Hiệp Phước thành khu công nghiệp sinh thái.
Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại đầu tư, kết nối cung cầu, quảng bá sản phẩm, dịch vụ kinh doanh bền vững, kinh tế số.
Kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh không phải là một hoạt động riêng biệt mà được lồng ghép vào chiến lược phát triển chung của thành phố, như: phát triển cùng với kinh tế số, kinh tế chia sẻ và kinh tế xanh; lồng ghép vào quy hoạch đô thị hay là coi như là giải pháp cho thực hiện các chương trình giảm ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo kế hoạch ban hành hằng năm và dài hạn, các đơn vị chịu trách nhiệm phân công từng nôi dung cụ thể trong kinh tế tuần hoàn tiến hành thực hiện và có báo cáo định kỳ kết quả thực hiện về Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh.
Cơ chế tài chính phục vụ cho phát triển kinh tế tuần hoàn chủ yếu lấy từ ba nguồn, cụ thể: (1) Từ ngân sách Thành phố để đầu tư ban đầu cho các dự án kinh tế tuần hoàn công ích như bãi rác thông minh, phân loại rác tại nguồn, trung tâm tái chế,… (2) Huy động xã hội hóa, ưu đãi đầu tư, miễn thuế với những sản phẩm tuần hoàn, hỗ trợ tín dụng xanh,… (3) Từ hợp tác quốc tế: thông qua các tổ chức quốc tế, Thành phố nhận hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để phát triển kinh tế tuần hoàn.
Như vậy, bộ máy quản lý, cơ chế vận hành kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh được tổ chức theo hướng tích hợp, có sự tham gia của nhiều ngành, lĩnh vực, viện nghiên cứu. Sự phối hợp chặt chẽ và bao phủ rộng nhiều lĩnh vực của Thành phố là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa mục tiêu biến TP. Hồ Chí Minh là một đô thị tuần hoàn, góp phần vào mục tiêu phát triển bền vững của Thành phố.
3. Một số giải pháp để hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở TP. Hồ Chí Minh.
(1) Cần có hành lang pháp lý chặt chẽ hơn phục vụ cho phát triển kinh tế tuần hoàn.
Ở cấp độ Nhà nước, cần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật cho phù hợp với tình hình mới, đáp ứng cho việc phát triển kinh tế tuần hoàn. Khung khổ pháp lý phát triển kinh tế tuần hoàn hiện nay đang trong quá trình hoàn thiện, còn thiếu các hướng dẫn để các địa phương triển khai, thực hiện. Điển hình, như: Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn theo quy định tại Điều 139, Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường đang xây dựng, dự kiến hoàn thành năm 2024 nhưng đến nay vẫn chưa được ban hành, đồng thời Nghị định số 08/2022/NĐ-CP còn nhiều bất cập và đang trong giai đoạn lấy ý kiến điều chỉnh; hay dự thảo nghị định cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn vẫn đang được lấy ý kiến các bên liên quan; thiếu một chính sách toàn diện về cộng sinh công nghiệp, quản lý chất thải trong đó quy định cụ thể về việc loại chất thải được phép tái sử dụng và hướng dẫn cụ thể cho việc tái sử dụng đó giữa các doanh nghiệp trong khu công nghiệp; chưa có chính sách ưu đãi cho Công ty phát triển hạ tầng, doanh nghiệp đạt chứng nhận doanh nghiệp sinh thái. Chính vì vậy, gây khó khăn cho Thành phố trong việc cụ thể hóa vào chính sách, pháp luật của Nhà nước vào phát triển kinh tế tuần hoàn địa phương.
Bên cạnh đó, cần rà soát lại khung pháp lý của các quy định, các luật để hỗ trợ các nhà máy, doanh nghiệp thực hiện kinh tế tuần hoàn; hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn và quy chuẩn môi trường để đánh giá hiệu quả của các mô hình kinh tế tuần hoàn. Cùng với việc xử lý nghiêm những cá nhân, tổ chức kinh doanh sai phạm, cần có những hoạt động khen thưởng thường kỳ hằng năm dành cho những tổ chức doanh nghiệp, cá nhân thực hiện tốt trong việc sản xuất – kinh doanh tuần hoàn, bảo vệ môi trường. Ngoài ra, cần xây dựng đội ngũ thanh tra, quản lý môi trường từ trung ương đến địa phương vừa có trách nhiệm, vừa phải có trình độ, năng lực. Những người này cần ý thức được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với việc đảm bảo hoạt động sản xuất – kinh doanh.
(2) Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với kinh tế tuần hoàn.
TP. Hồ Chí Minh đã tích cực chủ động trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn đã tổ chức được bộ máy liên ngành và đa cấp liên kết được sự phối hợp từ Ủy ban nhân dân Thành phố, các sở chuyên môn, các quận huyện, đơn vị sự nghiệp cùng với các viện nghiên cứu và cơ sở đào tạo,… Tuy nhiên, để mang lại hiệu quả rõ rệt hơn nữa, cần có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm cụ thể cho mỗi ngành, mỗi cấp, từ công tác quản lý nhà nước đến công tác thanh tra, kiểm tra; có cơ quan chịu trách nhiệm chính và phối hợp, cũng như cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong xử lý công việc. Bên cạnh đó, trong bộ máy quản lý này cần có một đơn vị chuyên trách có quyền lực điều phối ngang ngành đủ mạnh để giữ vai trò trung tâm kết nối các đơn vị thực hiện nhiệm vụ liên quan đến kinh tế tuần hoàn trong Thành phố. Khi giao nhiệm vụ ccho các đơn vị, yêu cầu thực hiện trách nhiệm và chỉ tiêu cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ đó.
(3) Hoàn thiện bộ chỉ số về kinh tế tuần hoàn Thành phố.
Hiện nay, các kế hoạch hành động được ban hành đều mang tính định hướng, công tác giám sát còn mang tính hành chính vì chưa có hệ thống đo lường định lượng hiệu quả. Chính vì vậy, Thành phố nên nhanh chóng xây dựng Bộ Chỉ số kinh tế tuần hoàn thành phố, ứng dụng công nghệ số để đo lường và công bố định kỳ.
(4) Hoàn thiện thể chế về vốn để gắn phát triển kinh tế tuần hoàn với đổi mới sáng tạo.
Một trong những khó khăn thách thức đối với việc triển khai, thực hiện thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn đó là thiếu nguồn lực vốn để đổi mới công nghệ xanh. Nhu cầu vốn cho quá trình chuyển đổi này là rất lớn, do đó, cần có chính sách tài chính công thông minh và cơ chế tài chính sáng tạo. Việc huy động các nguồn vốn cho phát triển kinh tế tuần hoàn không thể chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước và Thành phố, cần phải thiết lập các định hướng cơ chế, chính sách thu hút nguồn vốn bên ngoài, trong đó có vốn từ tư nhân thông qua hình thức hợp tác công – tư hay cần tận dụng các nguồn đầu tư, hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế hay huy động hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
(5) Tăng cường học hỏi kinh nghiệm về hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Quyết định số 2076/QĐ-TTg ngày 22/12/2017 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, nhấn mạnh: “Phát triển vùng TP. Hồ Chí Minh trở thành một vùng đô thị lớn phát triển năng động và bền vững; có vai trò, vị thế quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và hướng tới quốc tế”. Để làm được điều này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân thì TP. Hồ Chí Minh cần phải tăng cường học hỏi kinh nghiệm của các nước bạn trong khu vực châu Á và trên thế giới. TP. Hồ Chí Minh cũng có thể chủ động, tích cực trao đổi, học tập và chia sẻ thông qua các hoạt động, như: hội thảo về môi trường và tài nguyên; về biến đổi khí hậu; hội thảo vùng cũng như các cuộc buổi tọa đàm; giao lưu… Với cách làm này sẽ góp phần học hỏi thêm kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung, TP. Hồ Chí Minh nói riêng trong việc xây dựng chính sách, hệ thống pháp luật thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Qua phân tích ở trên, có thể khẳng định, việc phát triển kinh tế tuần hoàn hướng đến góp phần xây dựng mô hình tăng trưởng bền vững ở TP. Hồ Chí Minh, cần hoàn thiện thể chế để thúc đẩy sự phát triển, tạo hành lang pháp lý thông thoáng và có các cơ chế khuyến khích tạo động lực cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tích cực tham gia vào sản xuất – kinh doanh – tiêu dùng theo những tiêu chí của kinh tế tuần hoàn.
Tài liệu tham khảo:
1. Acemoglu, D., Johnson, S., & Robinson, J. A. (2001). The colonial origins of comparative development: An empirical investigation. American Economic Review, 91(5), 1369-1401. https://doi.org/10.1257/aer.91.5.1369.
2. TP. Hồ Chí Minh phát triển kinh tế tuần hoàn. https://scp.gov.vn/tin-tuc/t13657/tp-ho-chi-minh-phat-trien-kinh-te-tuan-hoan?utm_source=chatgpt.com.
3. Coase, R. H. (1937). The nature of the firm. Economica, 4 (16), 386-405. https://doi.org/10.1111/j.1468-0335.1937.tb00002.x.
4. Đinh Văn Ân và Lê Xuân Bá (2006). Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. H. NXB Khoa học và Kỹ thuật.
5. Ngân hàng Thế giới và Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2016). Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ.
6. Ostrom, E. (1990). Governing the commons: The evolution of institutions for collective action, Cambridge University Press. https://doi.org/10.1017/CBO9780511807763Greif (2006)
7. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2024). Kế hoạch số 4330/KH-UBND ngày 31/7/2024 về thực hiện Đề án phát triển kinh tế tuần hoàn trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2024 – 2030.
8. Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh (2024). Báo cáo số 388/BC-UBND ngày 10/12/2024 về kết quả thực hiện Đề án Phát triển kinh tế số, kinh tế chia sẻ và kinh tế tuần hoàn trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh giai đoạn 2020 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
9. Joskow, P. L. (2004). Introduction to electricity sector liberalization: Lessons learned from cross-country studies. Utilities Policy, 13(1), 9-14. https://doi.org/10.1016/j.jup.2004.01.001.