TS. Phạm Văn Phong
Tạp chí Cộng sản
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong thời gian qua, chủ trương sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và điều chỉnh địa giới hành chính ở Việt Nam đã và đang được triển khai mạnh mẽ. Đây là một bước đi chiến lược nhằm xây dựng bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đồng thời, phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, lợi dụng quá trình này, các thế lực thù địch và một số luận điệu thiếu thiện chí đã xuyên tạc rằng việc sáp nhập cơ quan, địa phương là biểu hiện của “tập trung hóa quyền lực”, “mất dân chủ ở cơ sở” hay “chạy theo kinh tế mà xem nhẹ bản sắc văn hóa địa phương”. Những luận điệu sai trái này đòi hỏi phải được phân tích, phản bác một cách khoa học và thuyết phục, qua đó khẳng định tính tất yếu, đúng đắn của đổi mới tổ chức bộ máy và địa giới hành chính dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ khóa: Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ động phản bác luận điệu xuyên tạc, xây dựng bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
1. Luận điệu xuyên tạc về “mất dân chủ, tập trung hóa quyền lực”
Các thế lực thù địch rêu rao rằng, chủ trương sáp nhập tỉnh, tinh gọn bộ máy đã vi phạm dân chủ, “tập trung hóa quyền lực” về tay một nhóm lãnh đạo. Chúng vu cáo Đảng, Nhà nước “tự ý quyết định, không hỏi ý kiến Nhân dân”, cố tình không trưng cầu dân ý khi sắp xếp địa giới hành chính. Ví dụ, Đài châu Á Tự do (RFA) đặt câu hỏi khiêu khích “sáp nhập tỉnh sao không trưng cầu dân ý?”, chúng hàm ý rằng, chính quyền làm trái ý dân, tước quyền dân chủ của người dân. Mục tiêu của luận điệu này là làm người dân hiểu lầm quá trình sắp xếp bộ máy thiếu minh bạch, không có sự tham gia của Nhân dân, từ đó giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trên thực tế, tinh thần dân chủ và minh bạch luôn quán xuyến trong quá trình sắp xếp đơn vị hành chính ở nước ta. Chủ trương sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện đã được công khai từ sớm và nhận được sự ủng hộ cao của Nhân dân. Đảng và Nhà nước ta không áp đặt mệnh lệnh hành chính một cách chủ quan mà tiến hành từng bước thận trọng, lắng nghe ý kiến Nhân dân, cán bộ tại cơ sở. Các tiêu chí, phương án sắp xếp đơn vị hành chính đã được thảo luận kỹ lưỡng, kể cả tại diễn đàn Quốc hội và các phiên họp Chính phủ mở rộng với sự tham gia của đại diện các địa phương. Điều này bác bỏ luận điệu cho rằng chính quyền phớt lờ Nhân dân – ngược lại, chính nhờ sự đồng thuận của Nhân dân mà chủ trương lớn mới được thông qua. Hơn nữa, quy trình sáp nhập tỉnh tuân thủ đúng pháp luật: Chính phủ dự thảo đề án, trình Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương quyết định chủ trương, sau đó Quốc hội sẽ thảo luận và phê chuẩn. Trước khi trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố có liên quan phải thông qua nghị quyết đồng ý sáp nhập, tức là đại biểu do dân bầu đã thể hiện tiếng nói của cử tri.
Song song với dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp ở cơ sở cũng được phát huy. Nhiều kênh thông tin tham vấn như tiếp xúc cử tri, cổng thông tin điện tử Chính phủ (mục “góp ý hiến kế”) được mở để người dân, doanh nghiệp đóng góp ý kiến cho đề án sắp xếp đơn vị hành chính. Chính phủ cam kết “luôn lắng nghe và phản hồi” các góp ý này. Như vậy, quá trình hoạch định chính sách hoàn toàn công khai, minh bạch, có sự tham gia của Nhân dân, khác xa luận điệu xuyên tạc về “mất dân chủ”.
Bên cạnh đó, cần nhận thức đúng về khía cạnh “tập trung quyền lực”. Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng và bộ máy nhà nước ta. “Tập trung” không có nghĩa là độc đoán, mà là để thống nhất ý chí và hành động, tránh tản mát, cục bộ địa phương. Việc sáp nhập các tỉnh nhỏ thành tỉnh lớn hơn, xây dựng chính quyền địa phương 2 cấp (tỉnh và xã), thực chất trao thêm quyền chủ động cho cấp cơ sở, giúp chính quyền “gần dân hơn, sát dân hơn, giải quyết công việc cho dân thuận lợi hơn”. Như vậy, quyền lực nhà nước được phân cấp mạnh và đến gần nhân dân hơn, chứ không phải tập trung về Trung ương để xa rời dân như các đối tượng xấu tuyên truyền. Khi bỏ cấp trung gian (cấp huyện), tỉnh và xã sẽ tương tác trực tiếp, giảm quan liêu, giảm tầng nấc, người dân được tiếp cận dịch vụ công nhanh hơn. Đây chính là mở rộng dân chủ và tăng cường hiệu quả quản trị địa phương.
Thực tế triển khai cho thấy, chính quyền các cấp đang hành động quyết liệt theo hướng gần dân. Từ ngày 01/3/2025, nhiều nhiệm vụ trước đây thuộc thẩm quyền cấp huyện đã được chuyển xuống cấp xã giải quyết. Ví dụ, công an cấp xã ở một số nơi đã trực tiếp thực hiện các thủ tục đăng ký ôtô, xe máy; cấp mới, đổi thẻ căn cước; cấp tài khoản định danh điện tử… thay vì bắt người dân lên huyện như trước. Người dân được phục vụ ngay tại địa bàn, tiết kiệm thời gian chi phí. Sự chuyển biến tích cực này là minh chứng sống động bác bỏ luận điệu “tập trung quyền lực, xa rời dân”. Không chỉ chính quyền cơ sở, mà mọi tầng lớp nhân dân đều đồng thuận, hưởng ứng chủ trương chung. Nhân dân thấy rõ lợi ích lâu dài nên đồng tình cao, không xảy ra biến động xã hội tiêu cực. Nhìn ra thế giới, trên 80% các quốc gia áp dụng mô hình chính quyền 3 cấp1 (tương đương mô hình mà Việt Nam hướng tới), chỉ khoảng chưa đầy 20% nước còn tổ chức 4 cấp chính quyền. Xu thế chung là tinh gọn bộ máy, phân quyền hợp lý, nâng cao hiệu quả quản trị. Việt Nam đang đi đúng hướng, phù hợp quy luật phát triển, do đó được người dân và cả các chuyên gia ủng hộ.
2. Luận điệu kích động về “xóa sổ văn hóa, lịch sử địa phương”
Một luận điệu thâm độc khác cho rằng việc sáp nhập tỉnh, điều chỉnh địa giới hành chính sẽ “xóa sổ” bản sắc văn hóa và lịch sử địa phương. Các phần tử phản động gieo rắc nỗi sợ rằng, sáp nhập tỉnh là xóa tên tỉnh cũ, làm mất di sản văn hóa, truyền thống lịch sử của địa phương đó. Chúng tuyên truyền: tỉnh nhỏ sáp nhập vào tỉnh lớn sẽ bị “xóa sạch dấu vết”, “mất gốc, mất bản sắc”, dân địa phương sẽ “mất quê hương” trên danh nghĩa hành chính.
Đặc biệt, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để khoét sâu mâu thuẫn: xuyên tạc rằng sáp nhập tỉnh là “xóa đất đai của đồng bào dân tộc”, “đồng hóa văn hóa” của các nhóm thiểu số. Ví dụ, các tổ chức phản động lưu vong như Việt Tân, Chân Trời Mới Media, VOA Tiếng Việt đã phát tán luận điệu kích động “đuổi người Kinh, trả đất cho người dân tộc; sáp nhập tỉnh, thành là xóa đi lịch sử, đất đai của đồng bào”. Đây là những lời lẽ cực đoan nhằm gây chia rẽ vùng miền, chia rẽ dân tộc, khiến người dân tộc thiểu số và người dân địa phương hoang mang rằng truyền thống quê hương mình sẽ bị xóa bỏ sau khi sáp nhập.
Thủ đoạn ở đây là kích động tâm lý hoài nghi, tự ái địa phương và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Các thế lực thù địch lợi dụng tình cảm gắn bó của người dân với tên gọi tỉnh nhà, với truyền thống văn hóa lịch sử địa phương để gieo rắc suy nghĩ tiêu cực rằng Trung ương “xóa sổ” địa phương họ. Chúng khơi dậy quá khứ từng có thời kỳ thực dân, đế quốc chia để trị, hòng ám chỉ sai trái rằng việc sáp nhập hiện nay cũng là “áp đặt từ trên”. Đồng thời, chúng kích động mâu thuẫn dân tộc, vùng miền, tung tin sai sự thật về việc tỉnh này sáp nhập tỉnh kia dẫn đến “một dân tộc bị mất quyền tự quyết” hay văn hóa vùng thiểu số bị chèn ép.
Mục tiêu của âm mưu này là phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân tộc thiểu số để kích động ly khai, tự trị, tạo bất ổn chính trị – xã hội. Bài học lịch sử ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy, kẻ thù đã từng triệt để lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, kỳ thị sắc tộc để đòi “quyền tự quyết”, dẫn đến sự tan rã của một loạt quốc gia. Chúng muốn áp dụng kịch bản đó ở Việt Nam: dùng chiêu bài “bảo vệ văn hóa dân tộc” để thực hiện âm mưu cách mạng màu, tiến tới hình thành “nhà nước riêng” đối lập với Nhà nước ta.
Cần khẳng định rõ, việc điều chỉnh địa giới hành chính không hề xóa bỏ lịch sử, văn hóa của địa phương, ngược lại là để các giá trị ấy được bảo tồn và phát huy tốt hơn trong không gian phát triển mới. Việc sáp nhập tỉnh chỉ là thay đổi về đơn vị hành chính quản lý, không làm người dân mất đi bản sắc hay truyền thống đã gắn bó. Lịch sử hàng trăm năm, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của mỗi vùng đất vẫn tiếp tục được giữ gìn trong đời sống cộng đồng và sử sách. Tên gọi hành chính có thể thay đổi theo yêu cầu phát triển, nhưng truyền thống lịch sử vẻ vang và văn hóa tốt đẹp của địa phương sẽ được kế thừa trong thực thể hành chính mới. Chẳng hạn, nếu tỉnh A và tỉnh B hợp nhất thành tỉnh AB, thì truyền thống anh hùng, di tích lịch sử, lễ hội văn hóa của cả hai vùng A và B đều trở thành tài sản chung của tỉnh AB, được quan tâm đầu tư bảo tồn nhiều hơn. Không có chuyện “đổi tên là xóa hết”. Thực tế nước ta đã từng nhiều lần điều chỉnh địa giới mà bản sắc địa phương vẫn trường tồn: Sau năm 1975, hàng chục tỉnh được sáp nhập rồi lại tách ra vào thập niên 90 thế kỷ XX, các di sản văn hóa của vùng đất không những không mất đi mà còn được Nhà nước phong tặng danh hiệu, UNESCO vinh danh (ví dụ: dân ca quan họ Bắc Ninh, ví giặm Nghệ Tĩnh, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên… vẫn bảo tồn xuyên suốt dù tỉnh, huyện có thay đổi). Điều đó cho thấy, luận điệu “sáp nhập là xóa sổ văn hóa lịch sử” hoàn toàn vô căn cứ.
Đảng và Nhà nước rất coi trọng yếu tố văn hóa, lịch sử, đặc điểm dân tộc, tôn giáo khi xây dựng phương án sáp nhập địa giới. Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: việc nghiên cứu sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh phải bảo đảm sự ổn định để phát triển kinh tế – xã hội, xét trên nhiều yếu tố như quốc phòng an ninh, vị trí địa chính trị, quy hoạch vùng, văn hóa của cộng đồng dân cư. Như vậy, mỗi đề án sáp nhập tỉnh đều tính đến yếu tố đặc thù về văn hóa – xã hội của địa phương nhằm chọn phương án tối ưu.
Thực tế thảo luận cho thấy, Trung ương cân nhắc kỹ việc đặt tên tỉnh mới, chọn trung tâm hành chính sao cho hài hòa, kế thừa được giá trị lịch sử văn hóa truyền thống của các địa phương cũ. Ví dụ, nếu sáp nhập tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, tên tỉnh mới có thể lấy từ tên gọi quen thuộc trong lịch sử chung, tránh gây tự ái cho bất cứ bên nào. Các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu, các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa của tỉnh cũ sẽ được tôn vinh ở quy mô cấp tỉnh mới hoặc quốc gia, bảo đảm không ai bị lãng quên. Luật Di sản văn hóa và các chính sách về bảo tồn di sản phi vật thể vẫn được áp dụng liên tục trên địa bàn, không phụ thuộc việc chia tách, sáp nhập hành chính.
Chủ trương sáp nhập tỉnh lần này gắn liền với mục tiêu “mở rộng không gian phát triển”, giúp các địa phương “khai thác tốt tiềm năng, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao chất lượng sống cho người dân”. Khi kinh tế – xã hội phát triển, chúng ta sẽ có điều kiện đầu tư hơn cho văn hóa, giáo dục, bảo tồn di sản. Trong và sau quá trình sáp nhập, Trung ương luôn quan tâm hỗ trợ các tỉnh về nguồn lực để bảo đảm không vùng nào bị tụt lại. Các nét văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số càng được khuyến khích phát huy trong một tỉnh lớn đa dân tộc, trở thành điểm nhấn thu hút du lịch và giao lưu văn hóa.
Mặt khác, cần nhìn nhận lợi ích lâu dài về lịch sử: Việc sáp nhập để hình thành những tỉnh mạnh hơn, phát triển bền vững hơn sẽ đóng góp những trang sử mới vẻ vang cho chính địa phương đó. 50 năm, 100 năm sau, người dân sẽ tự hào về giai đoạn sáp nhập đầu thế kỷ XXI như một bước ngoặt lịch sử mang lại phồn vinh cho quê hương. Chính những thành tựu phát triển mới là sự tôn vinh tốt nhất đối với tiền nhân và di sản cha ông để lại. Ngược lại, tư duy cục bộ, giữ khư khư đơn vị hành chính nhỏ bé dù không còn phù hợp, mới là trái với dòng chảy lịch sử và kìm hãm việc phát huy giá trị địa phương.
3. Luận điệu phủ nhận hiệu quả kinh tế – xã hội, cho rằng sáp nhập chỉ là hình thức, không hiệu quả
Một nhóm luận điệu tập trung vào mặt kinh tế xã hội, cố gắng phủ nhận hiệu quả của việc tinh gọn bộ máy. Chúng rêu rao rằng sáp nhập tỉnh, giảm biên chế “chỉ là hình thức mỵ dân, không đem lại hiệu quả thực tế mà còn gây tốn kém, lãng phí”. Thậm chí, chúng chế giễu rằng “càng tinh gọn lại càng phình ra”, viện cớ sau sáp nhập số lượng cấp phó tăng lên ở một số cơ quan.
Các đối tượng chống phá còn bịa đặt rằng việc tinh giản biên chế thực chất chỉ là “cho hạ cánh an toàn”, ngụ ý cán bộ yếu kém được nghỉ hưu sớm, hưởng chế độ cao. Chúng tuyên truyền rằng tinh gọn bộ máy không tiết kiệm được ngân sách, vì cắt chỗ này phình chỗ khác, cuối cùng lại đẻ thêm bộ máy mới. Luận điệu này muốn phủ quyết mọi thành quả cải cách hành chính của nước ta, gieo tâm lý hoài nghi rằng toàn bộ công cuộc sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện chỉ là “vẽ vời”, không đem lại lợi ích gì cho quốc kế dân sinh.
Thủ đoạn ở đây là đánh vào tâm lý nôn nóng, thực dụng của một bộ phận quần chúng: nếu không thấy lợi ích ngay trước mắt thì cho rằng chính sách thất bại. Các luận điệu này cố tình bóp méo dữ liệu chính thức, soi mói hiện tượng nhất thời để khái quát sai lệch bản chất. Ví dụ, việc số cấp phó tạm thời tăng sau sáp nhập là có thật, nhưng chúng không nêu bối cảnh chuyển tiếp và giải pháp khắc phục, mà chỉ cắt xén hòng chứng minh cho cái gọi là “càng giảm càng tăng”. Chúng cũng lợi dụng một số trường hợp tinh giản biên chế chưa hợp lý trong quá khứ để nói xấu chủ trương chung là “lợi ích nhóm”, “hình thức”. Rõ ràng, mục đích cuối cùng của âm mưu này là làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào hiệu quả lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, từ đó phủ nhận đường lối đổi mới nói chung. Chúng muốn gieo rắc tư tưởng tiêu cực rằng “có cố cải tổ cũng vô ích”, làm cán bộ, nhân dân hoang mang, thiếu quyết tâm thực hiện chủ trương lớn.
Thực tiễn đã chứng minh ngược lại những luận điệu xuyên tạc kể trên: chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy là hoàn toàn đúng đắn và bước đầu mang lại hiệu quả tích cực. Đây không phải ý chí chủ quan nhất thời mà là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng từ Đổi mới 1986 đến nay. Nguyên nhân sâu xa của việc phải tinh giản là bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc đã gây lãng phí, kìm hãm phát triển. Chi thường xuyên nuôi bộ máy có thời điểm chiếm tới gần 70% ngân sách nhà nước, quá cao so với thế giới, khiến nguồn lực cho đầu tư phát triển giảm sút. Do đó, tinh gọn bộ máy là việc làm tất yếu, khách quan, là ý chí nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Hoàn toàn không phải hình thức hay “vì lợi ích nhóm” như kẻ xấu xuyên tạc. Những kết quả cụ thể, đo đếm được đã khẳng định hiệu quả của chủ trương này: hiện nay, tổ chức bộ máy của Chính phủ gồm 13 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 4 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 5 bộ, 4 cơ quan trực thuộc Chính phủ; giảm 13/13 tổng cục, tổ chức tương đương, giảm 518 cục và 218 vụ)2; thống nhất giảm số đơn vị hành chính cấp tỉnh trên cả nước từ 63 xuống 34, trong đó có 28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương; chấm dứt hoạt động của chính quyền địa phương cấp huyện; kết thúc hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và cấp huyện3.
Riêng về hiệu quả kinh tế – xã hội của việc sáp nhập đơn vị hành chính, có thể thấy ngay ở 3 khía cạnh: tiết kiệm ngân sách, tối ưu nguồn lực và tạo động lực phát triển mới.
(1) Tiết kiệm chi thường xuyên. Cắt giảm bộ máy đồng nghĩa giảm chi lương, chi hoạt động cho các cấp chính quyền trung gian. Số tiền tiết kiệm đó sẽ được tái đầu tư cho an sinh xã hội. Thực tế, sau khi tính toán cân đối tài chính từ tinh giản bộ máy, Bộ Chính trị đã quyết định miễn toàn bộ học phí từ mầm non đến trung học phổ thông công lập trên toàn quốc từ năm học 2025 – 2026. Đây là quyết sách mang ý nghĩa lịch sử, giảm gánh nặng cho hàng triệu gia đình, bảo đảm công bằng giáo dục. Nếu bộ máy không tinh gọn, khó lòng có nguồn lực để làm điều đó. Như vậy, lợi ích kinh tế chuyển hóa trực tiếp thành lợi ích xã hội, nâng cao dân trí, chất lượng nguồn nhân lực về lâu dài.
(2) Tối ưu nguồn lực và không gian phát triển. Sáp nhập tỉnh, huyện, xã giúp gộp nguồn lực phân tán, tập trung đầu tư các dự án quy mô lớn thay vì manh mún mỗi nơi một ít. Địa phương mới rộng hơn sẽ huy động được nhiều nguồn vốn hơn, thu hút các nhà đầu tư chiến lược, phát triển các trung tâm kinh tế quy mô vùng. Ví dụ, sau sáp nhập, các tỉnh có thể quy hoạch lại không gian kinh tế, đô thị bài bản hơn, xây dựng những khu công nghiệp, khu du lịch tầm cỡ mà trước đây tỉnh nhỏ không đủ quỹ đất. Điều này tạo ra xung lực phát triển mới, tăng thu ngân sách, tạo thêm việc làm, người dân hưởng lợi.
(3) Cải thiện chất lượng dịch vụ và quản trị. Bộ máy tinh gọn nhưng phân cấp, ủy quyền hợp lý sẽ phục vụ người dân, doanh nghiệp thuận tiện hơn (như ví dụ công an xã cấp giấy tờ đã nêu trên). Thủ tục hành chính được đơn giản hóa, nhiều quy định kinh doanh được cắt giảm (đã có 2.770 quy định được cắt giảm, đơn giản hóa từ 2021 đến nay4), tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Theo Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ, trong năm 2023, Thủ tướng đã phê duyệt phương án cắt giảm 144 thủ tục hành chính liên quan doanh nghiệp. Đó chính là hiệu quả thiết thực về kinh tế của quá trình tinh gọn bộ máy.
Đối với luận điệu “càng tinh gọn càng phình ra” do chúng cố tình suy diễn từ việc tạm tăng cấp phó, chúng ta có giải thích đầy đủ và cơ sở pháp lý rõ ràng. Đúng là giai đoạn đầu sau sáp nhập, một số cơ quan có số lượng cấp phó vượt quá quy định do dồn 2 bộ máy làm một. Đây chỉ là giải pháp tình thế, mang tính nhân văn: không để lãng phí nhân lực và “sốc” về tổ chức. Mỗi cán bộ lãnh đạo còn đủ năng lực, uy tín đều được bố trí vị trí phù hợp trong cơ quan mới, tránh sa thải vội vàng. Quốc hội cũng đã kịp thời ban hành nghị quyết tại kỳ họp bất thường lần thứ 9 (tháng 01/2023), cho phép các cơ quan sắp xếp lại được có số cấp phó vượt quy định trong tối đa 5 năm, sau đó giảm dần về đúng khung. Như vậy, về lâu dài, sẽ không hề có chuyện “càng gọn càng phình”. Những kẻ cố tình trích dẫn con số cấp phó tăng để kết luận sai lệch đã “đổi trắng thay đen”, tự phơi bày sự thiếu hiểu biết hoặc ác ý của mình.
Từ ngày 01/3/2025, các cơ quan, đơn vị mới thành lập sau sáp nhập đã chính thức đi vào hoạt động đồng bộ, thông suốt ngay từ ngày đầu. Tại các địa phương, đội ngũ cán bộ, công chức vừa hợp nhất nhanh chóng kiện toàn tổ chức, phân công nhiệm vụ rành mạch, không để gián đoạn công việc phục vụ nhân dân. Điều này cho thấy, sự đồng thuận và quyết tâm cao của đội ngũ cán bộ trong thực hiện chủ trương lớn, không hề có tình trạng rối loạn hay “tê liệt” như các phần tử xấu mong đợi. Niềm tin của nhân dân vào chủ trương đúng đắn ngày càng được củng cố khi chứng kiến kết quả cụ thể: bộ máy gọn nhẹ hơn, phục vụ tốt hơn; nguồn lực dôi ra được đưa vào các chương trình phúc lợi (như miễn học phí). Dư luận xã hội chuyển biến tích cực, từ chỗ bỡ ngỡ ban đầu giờ đã đồng tình ủng hộ tuyệt đối. Nhiều ý kiến trước đây lo ngại sáp nhập sẽ “phức tạp, tốn kém” nay đã tâm phục, khẩu phục trước thực tế. Bộ máy hành chính cải cách là một yếu tố quan trọng góp phần phát triển kinh tế – xã hội đất nước, tạo xung lực mới.
4. Luận điệu cho rằng, “sáp nhập là chiêu bài để triệt hạ người không cùng quan điểm”
Một luận điệu thù địch khác mang màu sắc chính trị nội bộ, chúng vu cáo rằng việc sáp nhập tỉnh, bỏ cấp huyện chẳng qua là “chiêu bài để triệt hạ phe cánh, loại bỏ những người không cùng quan điểm”. Theo luận điệu này, lãnh đạo cấp cao chủ trương nhập tỉnh là để “gạt bỏ” một số cán bộ địa phương không cùng ý kiến, hoặc để “ghi điểm, tạo dấu ấn cá nhân”. Chúng tung tin rằng sáp nhập xong sẽ có nhiều cán bộ mất chức, những ai “không được lòng” cấp trên sẽ bị đưa vào diện dôi dư rồi loại bỏ không thương tiếc. Nói cách khác, chúng biến tướng chủ trương tinh giản thành một cuộc “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực” trong Đảng. Luận điệu này lợi dụng tâm lý lo lắng của một bộ phận cán bộ trước sắp xếp tổ chức: chúng đồn đoán rằng “nhiều người sẽ bị mất việc, không có chế độ hỗ trợ”, kích động tư tưởng bất mãn trong nội bộ. Mục tiêu là làm giảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, chia rẽ giữa lãnh đạo và cán bộ dưới quyền.
Đây là thủ đoạn nham hiểm nhằm đánh vào nội bộ ta, gây hoài nghi giữa các đồng chí, tạo ra “tự diễn biến, tự chuyển hóa” từ bên trong. Kẻ xấu thêu dệt “thuyết âm mưu” về đấu đá quyền lực sau chủ trương sáp nhập, gán ghép động cơ cá nhân cho các quyết sách tập thể. Chúng biết rằng công tác cán bộ luôn là vấn đề nhạy cảm, nên kích động tâm lý bất an trong đội ngũ cán bộ, công chức: người còn tại chức thì hoang mang về tương lai, người sắp xếp dôi dư thì tủi thân, bức xúc. Từ đó, chúng hy vọng lôi kéo được một số phần tử bất mãn nhập cuộc chống phá, làm suy yếu bộ máy từ bên trong. Thực chất, đây là sự phản chiếu tư duy bè phái, cơ hội của chính kẻ tung tin: chúng nghĩ ai cũng hành xử như chúng, đặt lợi ích cá nhân, phe cánh lên trên lợi ích đất nước. Thủ đoạn này nếu không được nhận diện kịp thời có thể gây nghi kỵ lẫn nhau, làm chậm quá trình triển khai chủ trương do cán bộ thiếu yên tâm công tác.
Cần nhìn rõ rằng, chủ trương sáp nhập tỉnh, tinh giản biên chế là quyết định mang tính chiến lược của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, không phải của riêng cá nhân nào. Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận dân chủ, kỹ lưỡng mới thống nhất ban hành Kết luận số 126, số 127 vào tháng 02/2025 để định hướng triển khai. Điều này bác bỏ luận điệu cho rằng đây là “ý chí chủ quan của một cá nhân lãnh đạo”. Từ đầu năm đến nay, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 21 kết luận, quyết định liên quan đến sắp xếp tổ chức bộ máy; Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 18 cũng ban hành 39 văn bản hướng dẫn triển khai. Khối lượng văn bản lớn và tốc độ ban hành nhanh như vậy chỉ có được khi cả hệ thống chính trị đồng lòng, chung sức. Không một cá nhân nào có thể tự ý “làm xiếc” với bộ máy đồ sộ của Đảng, Nhà nước. Vì thế, những lời vu cáo “ý đồ cá nhân” hoàn toàn vô căn cứ.
Chủ trương này được sự đồng thuận, ủng hộ cao của cán bộ, đảng viên các cấp chứ không hề gặp “âm thầm phản đối” như luận điệu xuyên tạc. Tinh gọn tổ chức bộ máy “hoàn toàn không phải là một cuộc ‘thanh trừng nội bộ’, ‘tranh giành quyền lực’ như các thế lực thù địch xuyên tạc”. Trái lại, đây là ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn dân, nhằm xây dựng bộ máy hiệu lực hiệu quả, phù hợp yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Bởi một đất nước muốn phát triển cần bộ máy tinh gọn, chứ không phụ thuộc vào cá nhân nào tại vị hay không. Do đó, luận điệu quy chụp động cơ xấu cho chủ trương sáp nhập là hết sức phi lý.
Công tác cán bộ trong sắp xếp tổ chức được thực hiện một cách minh bạch, nhân văn và có lộ trình. Mục đích là ổn định tư tưởng cán bộ, không gây xáo trộn đột ngột. Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ phương án bố trí, sắp xếp cán bộ, công chức, viên chức dôi dư sau sáp nhập, bảo đảm công khai và công bằng. Nhiều cán bộ, công chức thuộc diện dôi dư được tạo điều kiện đào tạo lại, chuyển đổi vị trí công tác phù hợp hoặc hưởng chính sách nghỉ hưu trước tuổi với chế độ thỏa đáng (theo Nghị định số 29/2019/NĐ-CP và các văn bản liên quan). Tuyệt đại đa số cán bộ diện sắp xếp đều đồng thuận, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới hoặc nghỉ chế độ với tinh thần vì sự nghiệp chung.
Thực tế vừa qua, những người đứng đầu các cơ quan hợp nhất đều ghi nhận sự đóng góp trách nhiệm, không kể cũ mới của anh em cán bộ. Nhiều tấm gương cán bộ tự nguyện xin nghỉ sớm để tạo cơ hội cho lớp trẻ hoặc xin giảm phụ cấp khi giữ chức vụ mới, thể hiện tinh thần nêu gương vì tập thể. Cán bộ sau sáp nhập đã “bắt tay ngay vào kiện toàn, phân công, phân cấp, phân quyền nhiệm vụ”, bảo đảm công việc thông suốt. Không hề có dấu hiệu bất mãn hay chống đối trong nội bộ.
Chủ trương sáp nhập lần này được tiến hành đồng bộ trên phạm vi cả nước. Điều đó cho thấy tính chiến lược và toàn cục, không hề nhắm vào “loại trừ” cá nhân nào. Hơn 30 tỉnh thành sẽ sáp nhập, tức là rất nhiều Ủy viên Trung ương, Bí thư, Chủ tịch tỉnh đương nhiệm sẽ có sự thay đổi về cương vị. Tất cả các đồng chí đều đang nghiêm túc quán triệt và ủng hộ chủ trương, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích địa phương, cá nhân. Không hề có biểu hiện “phe cánh” cản trở. Sự đồng lòng này làm phá sản hoàn toàn âm mưu chia rẽ nội bộ Đảng của kẻ thù.
5. Luận điệu phản động đòi “đa nguyên – đa đảng” dưới vỏ bọc “đổi mới triệt để”
Âm mưu “đa nguyên, đa đảng” là mục tiêu chống phá cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta. Chúng tận dụng bất cứ sự kiện đổi mới, chỉnh đốn nào trong nước để chuyển hướng dư luận sang vấn đề thể chế chính trị. Khi ta đổi mới kinh tế, chúng nói phải đổi mới chính trị. Khi ta tinh gọn bộ máy, chúng lu loa rằng còn đảng cộng sản thì bộ máy không thể tinh gọn thực sự. Thủ đoạn này thực chất là “bình mới rượu cũ”: từ hàng chục năm qua, luận điệu đa đảng mới có dân chủ đã được nhai đi nhai lại. Chúng cố tình lờ đi thực tiễn là nhiều quốc gia đa đảng rơi vào hỗn loạn, không hề có dân chủ thực sự (xung đột sắc tộc, đảo chính quân sự, các nhóm lợi ích thao túng chính trường…). Đồng thời, chúng phủ nhận mô hình một đảng lãnh đạo ở Việt Nam đã đem lại ổn định chính trị, phát triển kinh tế vượt bậc và đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Ý đồ sau cùng của chúng là dùng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để kích động lật đổ chế độ – đây chính là kịch bản từng xảy ra ở Liên Xô, Đông Âu cuối thế kỷ XX. Khi đó, lợi dụng cải tổ, cải cách, các thế lực phản động đã tuyên truyền đòi đa đảng, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dẫn tới sự sụp đổ của các nước XHCN. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị cảnh giác đối với chúng ta.
Chủ trương đổi mới của Đảng ta luôn là đổi mới đồng bộ, toàn diện nhưng trên nền tảng kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Điều này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định dứt khoát sau biến động Liên Xô, Đông Âu, kiên quyết, dứt khoát bác bỏ các quan điểm sai trái đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam.
Thực tiễn sinh động của cách mạng Việt Nam gần 40 năm đổi mới đã chứng minh sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi, đưa nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, có uy tín quốc tế ngày càng cao. Không hề có “thành trì cộng sản cuối cùng” nào bị phá bỏ như luận điệu thù địch rêu rao, trái lại chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng khẳng định sức sống. Việt Nam đang tiến hành cách mạng tinh gọn bộ máy, đặt ra yêu cầu sửa Hiến pháp được toàn dân ủng hộ, nhưng các thế lực thù địch vẫn lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Dù sửa đổi Hiến pháp hay cải cách bộ máy hành chính, cốt lõi là để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vững mạnh hơn theo Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đó là sự lựa chọn của lịch sử và của chính Nhân dân ta.
Cần vạch trần sự giả dối trong lập luận “đa đảng thì có dân chủ”. Bản thân các thế lực đòi đa đảng lại không hề có tư tưởng dân chủ. Chúng chỉ muốn thay thế sự lãnh đạo của Đảng bằng sự thao túng của chúng, phục vụ lợi ích của các thế lực phản động và ngoại bang. Luận điệu “đa đảng có dân chủ, một đảng mất dân chủ” thực chất chỉ là trò “lập lờ đánh lận con đen”. Dân chủ hay không không phụ thuộc số lượng đảng phái mà cốt ở chỗ quyền lực có thực sự thuộc về Nhân dân hay không.
Ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhân dân thực sự làm chủ đất nước, thông qua các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể do mình xây dựng nên. Dân chủ của ta là dân chủ gắn với kỷ cương, kỷ luật, vì lợi ích chung của đại đa số nhân dân. Ngược lại, ở nhiều nước đa đảng, dân chủ chỉ là hình thức: người dân bị cuốn vào vòng xoáy đấu đá giữa các đảng, xã hội bị phân hóa lợi ích, quyết sách thường bị chi phối bởi các nhóm tư bản và vận động hành lang. Những thứ đó xa lạ với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng, Nhà nước ta theo đuổi. Vì vậy, việc kiên trì một Đảng lãnh đạo không những không “lỗi thời” mà còn là yếu tố bảo đảm cho ổn định và phát triển bền vững. Chính các thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, phòng chống đại dịch, thiên tai… thời gian qua ở Việt Nam đã khiến nhiều người dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, không hề có nhu cầu “đa đảng” như kẻ xấu áp đặt.
Việt Nam hiện nay được quốc tế đánh giá là một trong những quốc gia ổn định chính trị nhất thế giới, tạo nền tảng vững chắc cho tăng trưởng kinh tế. Chỉ số tín nhiệm quốc gia, môi trường đầu tư của Việt Nam liên tục được cải thiện; nhiều tổ chức quốc tế nhận định “sự ổn định về chính trị, xã hội giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư”. Ngay cả trong bối cảnh dịch Covid-19 hay bất ổn toàn cầu, Việt Nam vẫn giữ được trật tự xã hội, đời sống nhân dân an toàn, đó chính là nhờ sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và hệ thống chính trị một đảng. Nếu đa đảng đối lập, liệu Việt Nam có thể nhanh chóng huy động sức mạnh tổng lực chống dịch như năm 2020 – 2021? Liệu có thể đồng lòng thực hiện các biện pháp khó khăn như giãn cách xã hội, hay có được chiến dịch tiêm chủng thần tốc? Câu trả lời là khó có thể, bởi nhiều nước đa đảng đã lúng túng, mâu thuẫn nội bộ và thất bại nặng nề trong ứng phó Covid-19. Đó là minh chứng rõ nhất cho ưu thế của hệ thống một đảng trong việc huy động nguồn lực và thực thi quyết sách lớn.
Hơn nữa, Nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất kỳ tổ chức phản động nào mạo danh “lực lượng đối lập”. Những “đảng phái” do Việt Tân, Quỹ dân chủ, Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời… lập ra ở hải ngoại không hề có chỗ đứng trong lòng dân, trái lại bị coi là khủng bố, tay sai ngoại bang. Ý chí của toàn dân tộc ta là giữ vững độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là sự thật lịch sử không thế lực nào xuyên tạc nổi. Bất cứ ai cố tình cổ xúy đa đảng đều bị nhân dân cảnh giác, đấu tranh bác bỏ.
Thực tế thời gian qua, các luận điệu đòi “đa nguyên đa đảng” vẫn chỉ lởn vởn trên mạng, không thể biến thành hành động thực tế vì tuyệt đại đa số người dân không hưởng ứng. Trái lại, người dân còn phê phán mạnh mẽ âm mưu lợi dụng danh nghĩa “xã hội dân sự”, “phản biện” để tập hợp lực lượng chống phá. Nhiều hội nhóm trá hình đã bị cơ quan chức năng xử lý, bóc gỡ kịp thời, cho thấy pháp luật nghiêm minh bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích chung của nhân dân.
Luận điệu đòi “đa nguyên – đa đảng” dưới vỏ bọc “đổi mới triệt để” là chiêu trò thâm độc nhằm thay đổi bản chất chế độ chính trị ở nước ta. Chúng ta dứt khoát bác bỏ yêu sách này, bởi đổi mới không đồng nghĩa với tự sát hay phủ định sạch trơn, mà là làm cho Đảng mạnh hơn, đất nước phát triển hơn dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng.
Việt Nam kiên định con đường một Đảng lãnh đạo, nhưng không bảo thủ: Đảng ta không ngừng tự đổi mới phương thức lãnh đạo, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực cầm quyền để đáp ứng yêu cầu của nhân dân. Đó mới chính là “đổi mới triệt để” theo đúng nghĩa tích cực, bảo đảm cho “dân chủ tập trung” được phát huy cao độ, đất nước ổn định và phát triển bền vững. Mọi âm mưu lợi dụng chiêu bài đa đảng đều sẽ bị vạch trần và thất bại, bởi lòng dân đã chọn Đảng, lịch sử đã chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng chính là giữ vững độc lập dân tộc và hạnh phúc lâu dài của Nhân dân, đây là chân lý mà không luận điệu phản động nào có thể xuyên tạc hay lay chuyển được.
Sắp xếp tổ chức bộ máy và địa giới hành chính theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là chủ trương lớn, đúng đắn và cấp thiết của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chặng đường sắp tới đòi hỏi chúng ta tiếp tục nỗ lực với quyết tâm cao độ. Dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, với sự vào cuộc đồng lòng của cả hệ thống chính trị và Nhân dân, công cuộc sắp xếp bộ máy, địa giới hành chính nhất định sẽ gặt hái những thành quả to lớn hơn nữa. Hơn lúc nào hết, mỗi người dân cần nhận thức rõ ý nghĩa lịch sử của nhiệm vụ này, từ đó đóng góp trí tuệ, công sức vào cuộc cải cách vĩ đại để xây dựng Nhà nước ta “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong kỷ nguyên mới.
Chú thích:
1. Tổng Bí thư Tô Lâm: 80% các nước có chính quyền chỉ 3 cấp. https://tuoitre.vn/tong-bi-thu-to-lam-80-cac-nuoc-co-chinh-quyen-chi-3-cap-20250213125334188.htm.
2. Bộ Nội vụ: Dự kiến không còn 13 tổng cục, giảm 518 cục và 218 vụ. https://tuoitre.vn/bo-noi-vu-du-kien-khong-con-13-tong-cuc-giam-518-cuc-va-218-vu-2025011122151059.htm.
3. Thông báo Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII). https://baochinhphu.vn/thong-bao-hoi-nghi-lan-thu-11-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-102250412181750852.htm.
4. Chi phí tuân thủ của doanh nghiệp chưa thực sự được cắt giảm. https://congthuong.vn/chi-phi-tuan-thu-cua-doanh-nghiep-chua-thuc-su-duoc-cat-giam-318391.html.