Chữ Tín trong xây dựng Đảng hiện nay

TS. Trịnh Thị Hường
Trường đại học Y Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Chữ Tín có ý nghĩa quan trọng trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, với tầm vóc là Đảng của dân tộc Việt Nam thì việc xây dựng chữ Tín lại càng trở lên vô cùng quan trọng, nó không chỉ đóng vai trò chiến lược trong xây dựng Đảng mà còn quyết định sự tồn vong của đảng cầm quyền. Việc vận dụng ý nghĩa của chữ Tín vào xây dựng Đảng không chỉ là việc làm thường xuyên mà còn là vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Từ khóa: Chữ Tín, ý nghĩa trong xây dựng Đảng, xây dựng Đảng, vấn đề cấp bách.

1. Đặt vấn đề

Suốt tiến trình 95 năm qua, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt nam luôn được Nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ, thừa nhận Đảng là Đảng của dân tộc và toàn thể Nhân dân Việt Nam. Bởi vì Đảng luôn giữ chữ Tín, giữ trọn niềm tin với Nhân dân, những thành tựu mà Đảng mang đến cho dân tộc Việt Nam là những thành công vĩ đại mà không ai có thể phủ nhận được. Bằng việc xây dựng chữ Tín, Đảng đã củng cố niềm tin vững chắc trong Nhân dân, do vậy, chữ Tín có ý nghĩa sâu sắc với vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.

2. Khái niệm và nội hàm của phạm trù chữ Tín

Chữ Tín ra đời từ rất sớm trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Thuật ngữ chữ Tín theo cách viết của người Trung Quốc ngày xưa tín (信) nghĩa là niềm tin, là giữ điều hẹn ước, người giữ được đức tín thì lời nói luôn phù hợp với hành động, nói như thế nào thì việc làm sẽ như thế. chữ Tín (信) thuộc loại hội ý, có bộ nhân (亻là người) và chữ ngôn (言 lời nói) nghĩa là lời nói, ý của từ này được hiểu: lời nói và việc làm của con người phải có sự thống nhất, nhất quán, ăn khớp với nhau, hay nói cách khác, lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau.

Chữ Tín thể hiện là lời nói thành thật: chữ Tín được được hiểu là khi đã nói ra một điều gì đó phải chính xác, trong lòng nghĩ gì thì trực tiếp nói ra vậy. Người thành thật thì nói với tiếng nói của con tim, không xuyên tạc sự thật, như vậy người khác mới tin mình.

Chữ Tín với tư cách là giữ đúng lời hứa: tất cả những đã nói ra và hứa với người khác thì phải phù hợp với hành động của mình. Hứa với ai một điều gì đó thì nhất định phải làm, còn nếu không làm được thì đừng nên nói ra để không ảnh hưởng niềm tin của những người xung quanh. Trong mối quan hệ giữa người với người phải giữ lòng tin cậy của người khác, khi người khác giao cho mình việc gì đó đã nhận rồi thì phải làm bằng được.

Chữ Tín được hiểu là thực hiện đúng và đầy đủ các cam kết với đối tác: Khi đã cam kết với đối tác bằng văn bản, lời nói phải thực hiện đúng, đầy đủ những gì đã cam kết, không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất đi sự cam kết. Làm công tác lãnh đạo, chữ Tín còn được hiểu là lời thề, lời tuyên thệ, mỗi khi nhận trách nhiệm ở vị thế xã hội nào đó con người phải thề, phải tuyên thệ trước khi đảm nhiệm và quyết không làm trái lời thề và lời tuyên thệ của mình. Lời nói và hành động luôn đi đôi với nhau, trong lời nói và hành động phải có sự thống nhất, nói như thế nào, làm đúng như thế, hành động không được sai với lời nói.

Chữ Tín còn được hiểu là giữ lời hứa, niềm tin và tạo dựng niềm tin đối với người khác. Trong mối quan hệ xã hội, người giữ chữ Tín nghĩa là giữ đúng lời hứa, lời thề, lời hạn ước, lời tuyên thệ, không làm trái với những gì mình đã nói và viết. Chữ Tín là đạo trị nước. Khi bàn về đạo trị nước Nguyễn Khuyến đưa ra lời khẩn cầu đối với vua: “Thần cúi trông bệ hạ lấy một chữ Tín ấy để khích lệ bản thân. Việc tiến hiền nếu như đã không thể thôi thì lúc đầu là tiến hiền, lúc sau là dùng hiền, cũng phải dùng chữ Tín, chớ có bất nhất. Hiệu lệnh nghiêm minh, chính là đem chữ Tín ra để đặt làm hiệu lệnh. Chế độ dứt khoát chính là đem chữ Tín ra đặt làm chế độ. Run rẩy, sợ hãi, không một ý nghĩ nào không để vào chữ Tín”1.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chữ Tín cũng được thể hiện rõ qua yêu cầu đối với người cán bộ, đảng viên: “Nói thì phải làm”, đã hứa với dân điều gì thì phải giữ lời hứa. Ở đây, chữ Tín không đơn thuần là đức tính cá nhân, mà là yếu tố cốt lõi làm nên phẩm chất cách mạng.

Từ phân tích trên thì có thể hiểu chữ Tín là sự giữ lời hứa, tạo dựng niềm tin, được người khác tin tưởng, tin cậy về sự thành thật, chân thành, làm đúng lời hứa, lời thề, lời tuyên thệ, trong các mối quan hệ xã hội và thực hiện đầy đủ trách nhiệm với những lời nói, ý kiến, quan điểm của mình ở một vị thế xã hội nhất định.

2. Ý nghĩa của chữ Tín trong xây dựng đảng cầm quyền

Thứ nhất, đảng cầm quyền tồn tại và phát triển được là nhờ sự ủng hộ và niềm tin của Nhân dân. “Mục đích của người cách mạng là để làm đầy tớ cho nhân dân, một người đầy tớ xứng đáng, trong sạch, trung thành”2. Khi Đảng xây dựng được niềm tin của Nhân dân là Đảng có được lòng dân. Từ xưa đến nay, những tổ chức chức, cá nhân muốn xây dựng địa vị lãnh đạo quốc gia đều có được niềm tin của dân, mà người có được niềm tin của dân là đạt được ý trời, đạt được ý trời là có cả thiên hạ. Bởi, “Ý dân là trời. Làm đúng ý nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”3. Khi Nhân dân đã tin vào Đảng thì Nhân dân sẽ che chở, bảo vệ Đảng, nghe theo Đảng, mọi chủ trương, đường lối của Đảng được triển khai tới Nhân dân một cách thuận lợi. Đảng là từ Nhân dân mà ra, mọi chủ trương của Đảng là để phục vụ Nhân dân, Đảng xây dựng chữ Tín là để được dân tin, Đảng phải xác định “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân… Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”4.

Chữ Tín của Đảng là lấy dân làm gốc: “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân”5. Thuận lòng dân, được dân tin thì mọi việc đều giành thắng lợi. Muốn được dân tin thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải mang lại lợi ích cho Nhân dân, thực thi quyền làm chủ của Nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực. Chủ trương, đường lối của Đảng phải làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.  

Thứ hai, giữ chữ Tín là luôn bảo đảm cho Đảng hành động nhất quán với cương lĩnh, nghị quyết, chương trình hành động đã đề ra. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng bằng sự kỳ vọng vào chủ trương, đường lối của Đảng và những giá trị, uy tín của Đảng. Nhân dân tin vào các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, mỗi chủ trương đưa ra đều mang lại hiệu quả thiết thực phục vụ Nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ VI, khẳng định: “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước”6.

Thứ ba, thực hành chữ Tín là Đảng phải biết nhận lỗi trước Nhân dân.

Mỗi con người, mỗi tổ chức khi thực hiện một công việc nào đó khó có thể tránh được những lỗi lầm, có làm là có sai. Biết sửa sai thì mới củng cố được niềm tin của Nhân dân đối với đảng cầm quyền. “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa”7, Đảng biết sai, sửa sai là đảng chân chính, tiến bộ, “một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”8. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Đảng có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước dân thì dân sẽ bao dung giúp Đảng sửa chữa.

Thứ tư, chữ Tín trong Đảng phải bắt đầu từ xây dựng phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên là những tế bào của Đảng, cán bộ, đảng viên có tài, có đức, giữ chữ Tín, được Nhân dân tin yêu thì Đảng trong sạch, vững mạnh. Chữ Tín là một trong những tiêu chuẩn đạo đức cách mạng. Khi người đảng viên giữ chữ Tín, không chỉ giữa cá nhân với tổ chức, mà còn giữa tổ chức với Nhân dân, sẽ tạo ra môi trường chính trị lành mạnh, gương mẫu. Cán bộ, đảng viên muốn xây dựng niềm tin của Nhân dân thì “việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng”9. Cán bộ, đảng viên là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”10, “Không có cán bộ tốt thì hỏng việc…”11. Cán bộ, đảng viên tốt phải là cán bộ biết giữ chữ Tín “nói đi đôi với làm”, trong thực thi công vụ cũng như trong cuộc sống đời thường, đã hứa thì phải làm, không được “nuốt lời”. “Đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam”12.

Cán bộ giữ chữ Tín là phải tiên phong làm trước, làm đúng, gương mẫu. Cách thuyết phục Nhân dân tốt nhất là phải thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả nhất, là tấm gương để quần chúng noi theo, “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”13. Muốn được Nhân dân tin thì phải “chính danh” ở vị trí nào cũng phải làm đúng, không lươn lẹo, bởi vì lươn lẹo sẽ tự đánh mất chữ Tín của bản thân “…Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”14.

Xây dựng chữ Tín cho cán bộ là phải xây dựng tư chất làm gương, người cán bộ từ việc nhỏ đến việc lớn luôn phải gương mẫu thực hiện trước, chấp hành nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Người cán bộ dù ở vị trí nào, cương vị nào cũng phải gương mẫu đi trước, làm trước, làm đúng và làm tốt; có như vậy Đảng mới xây dựng được chữ Tín trong lòng Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng làm theo.

Chữ Tín tạo nên sức mạnh mềm chính trị, giúp Đảng không chỉ lãnh đạo bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng sự tự nguyện tin tưởng và ủng hộ của xã hội. Sức mạnh của Đảng là sự tin tưởng vì nó xây dựng niềm tin và sự tín nhiệm từ người dân và các đối tác. Khi Đảng giữ vững chữ Tín, tức là thực hiện lời hứa, tuân thủ quy tắc và hành xử trung thực, sẽ củng cố lòng tin và tạo ra một hình ảnh tích cực, từ đó tăng cường sức mạnh mềm. Sức mạnh và sự tồn tại của Đảng phụ thuộc vào sự tin tưởng và ủng hộ của người dân. Bời vì, dân làm gốc, với nhân dân là chủ thể của cách mạng và sự phát triển đất nước, một khi dân đã tin tưởng vào Đảng thì sẽ đi theo Đảng, ủng hộ Đảng, bảo vệ Đảng đến cùng.

Chữ Tín của Đảng là phải thực hiện đúng nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, và tôn trọng các cam kết của mình thông qua các chủ trương, đường lối của Đảng được vận dụng vào thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm.

Thứ năm, chữ Tín là cơ sở xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ Đảng, giúp duy trì tính tổ chức, tính kỷ luật, tính thống nhất trong hành động của Đảng. Khi giữa các cấp ủy viên, giữa cấp trên và cấp dưới có sự tin cậy lẫn nhau, giữ đúng lời hứa, thẳng thắn, chân thành thì tổ chức Đảng sẽ ổn định và vững mạnh, ngược lại, các thành viên trong tổ chức Đảng mà nghi kỵ lẫn nhau, không có sự tin tưởng nhau thì sẽ dẫn đến mất đoàn kết, nội bộ bị chia rẽ, khi ấy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức chiến đấu và uy tín của Đảng.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhiều lần “nói đi đôi với làm”, giữ đúng cam kết với dân tộc, như: giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đổi mới kinh tế. Nhìn lại chặng đường lịch sử hơn 95 năm từ khi Đảng ra đời cho tới nay, thành quả mà Đảng Cộng sản Việt Nam mang lại cho dân tộc ta là không gì có thể đong đếm được. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Đảng đã dẫn dắt dân tộc Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Sở dĩ  Đảng giành được những thành tựu lớn lao là Đảng đã xây dựng được Chữ Tín trong lòng Nhân dân, nhờ có chữ Tín mà đã củng cố được ý Đảng, lòng dân, mọi chủ trương, đường lối của Đảng đều được Nhân dân nhiệt thành ủng hộ, vì Đảng làm cách mạng giải phóng Nhân dân, Đảng luôn đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Niềm tin của Nhân dân được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của Đảng, để bảo đảm niềm tin đó sẽ được đền đáp thì niềm tin phải trải qua sự thử thách lâu dài, thông qua những kết quả thực tế trong hoạt động của Đảng làm nên uy tín chính trị, để khẳng định niềm tin của Nhân dân dành cho Đảng có sức mạnh vững chắc lãnh đạo đất nước, Đảng cùng với dân tộc đánh đuổi thực dân, đế quốc, bảo vệ vững chắc chủ quyền đem lại độc lập tự do cho Nhân dân. Gần 40 năm thực hiện cương lĩnh đổi mới, nhờ có việc Đảng xây dựng Chữ Tín trong lòng Nhân dân mà “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”15.

Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho thấy, vẫn còn tồn tại một số biểu hiện xa rời chữ Tín, như: một số chính sách ban hành nhưng kém hiệu quả, không phù hợp với hiện thực khách quan; việc thực hiện nghị quyết chưa bám sát vào cuộc sống của người dân ở một số vùng, địa phương; tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm kỷ luật của Đảng  vẫn còn diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến niềm tin của Nhân dân đối với đảng cầm quyền. Vì vậy, xây dựng chữ Tín trong Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân không chỉ là bài học quá khứ mà còn là yêu cầu sống còn trong hiện tại và tương lai, nhất là trong bối cảnh Đảng ta đang tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng mạnh mẽ, toàn diện, đổi mới, cải cách hành chính trong bối cảnh cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy tổ chức hiện nay.

3. Một số giải pháp nhằm xây dựng và giữ gìn chữ Tín đối với Đảng cầm quyền

Muốn xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, sáng suốt, khoa học để lãnh đạo, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì việc xây dựng chữ Tín, tạo dựng niềm tin trong Nhân dân là vấn đề cốt lõi, sống còn. Do vậy, để thực hiện đúng chữ Tín với Nhân dân thì đảng cầm quyền cần tập trung giải quyết triệt để một số vấn đề sau:

Một là, nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Để nâng cao uy tín của Đảng thì mỗi cán bộ, đảng viên luôn phải xem việc thực hành chữ Tín, giữ gìn chữ Tín như giữ gìn sinh mạng của chính mình, cần phải nhận thức sâu sắc là “một sự bất tín, vạn sự bất tin”, trong hàng trăm việc làm tốt, chỉ một việc không giữ được chữ Tín coi như uổng phí công sức. Đối với người đứng đầu trong các tổ chức của Đảng, Nhà nước thì không ở đâu, không lúc nào mà không thực hiện chữ Tín. Bởi vì, mất niềm tin là mất tất cả, mất niềm tin không chỉ đánh mất đi sinh mệnh chính trị của bản thân mà còn không thể lãnh đạo được quần chúng, quần chúng không còn  niềm tin thì sẽ không nghe, không làm theo.

Phải giữ lời hứa, thực hiện đúng chương trình hành động, cam kết với Nhân dân. Tất cả các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị của Đảng phải giữ đúng lời hứa, lời cam kết, lời thề, lời tuyên thệ. Khi đã hứa, cam kết, thề, tuyên thệ thì cho dù khó khăn, gian khổ mấy cũng phải thực hiện bằng được, không nói suông, không chủ quan duy ý chí, tránh hình thức hóa khẩu hiệu.

Hai là, thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Nguyên tắc đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với đảng cầm quyền, nó không chỉ giúp nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và củng cố đoàn kết, thống nhất trong đảng mà nó còn là yếu tố cốt lõi để củng cố niềm tin của Nhân dân dành cho đảng cầm quyền. Tự phê bình và phê bình là một vũ khí sắc bén để tổ chức đảng sửa chữa những khuyết điểm, phát triển những ưu điểm và ngăn chặn suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng. Để tự phê bình và  phê bình đạt hiệu quả cao, đòi hỏi đảng cầm quyền phải trung thực, thẳng thắn, không né tránh khuyết điểm trước tổ chức và nhân dân, không ngừng xây dựng niềm tin trong nội bộ và niềm tin của quần chúng nhân dân dành cho đảng cầm quyền.

Ba là, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, giảm thiểu tối đa những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.

Quyền lực trong công tác cán bộ của Đảng đại diện cho thẩm quyền, trách nhiệm của các tổ chức đảng, người cán bộ giữ vai trò là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu trong công tác cán bộ, trên cơ sở niềm tin, tín nhiệm của tập thể, được nhân dân giao phó. Nếu không kiểm soát quyền lực tốt dễ bị thao túng, dẫn đến tình trạng tha hóa về đạo đức. Kiểm soát quyền lực là phải bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân; chống lại mọi biểu hiện tha hóa quyền lực, như lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực tập thể thành quyền lực cá nhân, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; lợi dụng quyền lực để mưu đồ bất chính. Để bảo đảm kiểm soát quyền lực ngày càng đi vào chiều sâu thì phải bảo đảm mọi quyết định của Đảng phải luôn xuất phát từ thực tiễn, gắn liền với lợi ích của Nhân dân. Quyết định khi đã ban hành phải được thực hiện nghiêm túc, tạo niềm tin và sự ủng hộ của Nhân dân đối với Đảng.

Bốn là, tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong giám sát và  phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc phải nâng cao trách nhiệm của mình trong việc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Giám sát và phản biện xã hội chính là bảo vệ những quan điểm đúng đắn, chỉ ra những hạn chế trong tổ chức đảng, giúp Đảng nâng cao chữ Tín và lắng nghe, tiếp thu ý kiến của Nhân dân, góp phần xây dựng các chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn, cùng với Nhân dân triển khai thực hiện những chủ trương, đường lối của Đảng, mang lại lợi ích thiết thực cho Nhân dân.

Năm là, tăng cường minh bạch, công khai trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, tạo dựng niềm tin của Nhân dân đối với hệ thống chính trị. Tăng cường minh bạch và công khai trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng là một nhiệm vụ quan trọng để củng cố niềm tin của Nhân dân đối với hệ thống chính trị. Việc công khai, minh bạch giúp kiểm soát quyền lực, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát và xây dựng các quyết định hoạt động của Nhà nước, từ đó làm giảm thiểu tối đa tệ nạn tham nhũng, nhũng nhiễu, hách dịch, cửa quyền của một bộ phận cán bộ;tăng cường minh bạch cũng là cơ sở tốt nhất để người dân tham ra thực hiện các thủ tục hành chính một cách thuận lợi nhất, khắc phục các thủ tục hành chính rườm rà, củng cố niềm tin của nhân dân với chính quyền cấp cơ sở.

Sáu là, minh bạch kết quả thực hiện nghị quyết, phản hồi và sửa đổi chính sách nếu chưa phù hợp thực tiễn. Minh bạch kết quả thực hiện nghị quyết để làm rõ những thành tựu và những hạn chế trong quá trình triển khai, thực hiện nghị quyết ở các cấp, từ đó phát huy những ưu điểm, khắc phục những nhược điểm, từng bước hoàn thiện nghị quyết để phục vụ nhân dân một cách tốt nhất. Minh bạch kết quả việc thực hiện nghị quyết để phát huy tối đa việc thực hiện quy chế dân chủ, lắng nghe ý kiến phản hồi của quần chúng nhân dân để từng bước sửa đổi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn.

Bảy là, coi sự tín nhiệm của Nhân dân là thước đo chữ Tín và uy tín chính trị của Đảng. Sự tín nhiệm của Nhân dân là nền tảng vững chắc cho uy tín của Đảng, đồng thời, là động lực để Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước hướng đến sự phát triển bền vững. Sự tin tưởng của Nhân dân đối với Đảng chứng tỏ mọi chủ trương, đường lối của Đảng luôn đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết, Nhân dân đặt niềm tin tuyệt đối vào Đảng khi Đảng trong sạch vững mạnh, cán bộ, đảng viên là những người liêm chính, giữ chữ Tín với Nhân dân, vì Nhân dân mà phục vụ. Do vậy, Đảng phải luôn tự chỉnh đốn mình, tự hoàn thiện mình để đáp ứng sự kỳ vọng của Nhân dân.

4. Kết luận

Chữ Tín là nền tảng đạo đức không thể thiếu được trong mỗi tổ chức, cá nhân, và đặc biệt là đối với một đảng cầm quyền. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, chữ Tín không chỉ là đạo đức, là văn minh mà còn là sinh mệnh chính trị, là yếu tố cơ bản quyết định sự sống còn, uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng và gìn giữ chữ Tín trong Đảng chính là xây dựng và giữ gìn niềm tin với Nhân dân, đồng thời, khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của Đảng trước Nhân dân, đất nước.

Chú thích:
1. Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Đình Chú (dịch theo Quốc triều đình sách văn). Bài luận thủ khoa của Nguyễn Khuyến trong kỳ thi Đình năm 1871.
2.  Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2011, tr. 4
3, 4. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 63; 453.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 283.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Sự thật, tr. 120.
7, 8, 9, 10, 11, 14. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 337 – 338; 301; 337 – 33; 318; 280; 552.
12. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 188.
13. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011). Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 284.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 322.