NCS. Lại Thị Thu Hiền
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
ThS. Kiều Văn Nam
Trường Đại học FPT
(Quanlynhanuoc.vn) – Sở hữu lợi thế về đất đai và khí hậu, tỉnh Đắk Lắk có tiềm năng lớn trong phát triển nông nghiệp song thực trạng sản xuất còn manh mún, thiếu kết nối chuỗi giá trị. Bài viết phân tích vai trò của liên kết vùng như một giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy nông nghiệp bền vững, thông qua việc gắn kết giữa nông dân, doanh nghiệp, nhà khoa học và chính quyền. Qua đó, đề xuất phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, chuỗi giá trị nông sản bền vững, ứng dụng công nghệ cao và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và thân thiện với môi trường.
Từ khóa: Liên kết vùng; phát triển bền vững; nông nghiệp; chính sách công; tỉnh Đắk Lắk.
1. Đặt vấn đề
Nông nghiệp từ lâu đã đóng vai trò nền tảng trong nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt tại các khu vực nông thôn và miền núi như Tây Nguyên, nơi có điều kiện tự nhiên và nguồn lực phong phú để phát triển các ngành hàng nông sản chủ lực. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và những thách thức từ biến đổi khí hậu, phát triển nông nghiệp bền vững trở thành một yêu cầu cấp thiết nhằm bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện đời sống người dân và bảo vệ môi trường tự nhiên. Để đạt được mục tiêu này, liên kết vùng được coi là một chiến lược quan trọng, giúp các địa phương phối hợp nguồn lực, xây dựng chuỗi giá trị nông sản hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.
Tỉnh Đắk Lắk, với vị trí trung tâm của vùng Tây Nguyên là một trong những khu vực có tiềm năng lớn về nông nghiệp, đặc biệt với các sản phẩm chủ lực như cà phê (chiếm khoảng 1/3 sản lượng cà phê cả nước), hồ tiêu, trái cây và chăn nuôi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phát triển nông nghiệp tại Đắk Lắk vẫn còn nhiều hạn chế, như sản xuất manh mún, thiếu sự kết nối trong chuỗi giá trị và chưa tận dụng được lợi thế từ sự hợp tác liên vùng. Những vấn đề này đặt ra yêu cầu cần thiết phải nghiên cứu vai trò của liên kết vùng trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững tại địa phương, từ đó đưa ra các giải pháp chính sách phù hợp nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng của tỉnh và khu vực Tây Nguyên nói chung.
2. Lý thuyết về liên kết vùng và phát triển nông nghiệp bền vững
Liên kết vùng là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong lý thuyết phát triển kinh tế và chính sách công, đề cập sự phối hợp giữa các địa phương trong một khu vực nhằm tối ưu hóa nguồn lực và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững. Theo lý thuyết cực tăng trưởng của François Perroux (1955), liên kết vùng tạo ra các “cực tăng trưởng” – những khu vực trung tâm có khả năng lan tỏa lợi ích kinh tế đến các khu vực lân cận thông qua các mối quan hệ hợp tác và trao đổi1. Có thể hiểu“vùng ở đây có thể liên quan đến việc kiểm soát chính trị và quản lý hành chính, cũng có thể hiểu là giới hạn địa lý hoặc tài nguyên thiên nhiên hay hệ sinh thái”2, cũng có thể hiểu là “Vùng là một bộ phận lãnh thổ quốc gia có các đặc điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển”3.
Liên kết vùng là một yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, đặc biệt đối với các quốc gia đang trong giai đoạn công nghiệp hóa và hiện đại hóa như Việt Nam. Việc liên kết vùng giúp khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế so sánh giữa các địa phương, thông qua việc phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất và hình thành các chuỗi giá trị liên vùng. Đồng thời, liên kết vùng còn góp phần giảm thiểu sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, giãn áp lực dân số và cơ sở hạ tầng tại các đô thị lớn. Quan trọng hơn, liên kết vùng tạo nên một không gian phát triển thống nhất, đồng bộ, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng và cả quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Thực tiễn cho thấy, những vùng có sự liên kết chặt chẽ, như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với trục TP. Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai, thường thu hút được nhiều nguồn lực đầu tư, phát triển nhanh và bền vững hơn so với các vùng phát triển phân tán, thiếu kết nối. Liên kết vùng là quá trình thiết lập các mối quan hệ kinh tế, xã hội, hạ tầng và thể chế giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng với nhau, nhằm khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế so sánh và tăng cường năng lực cạnh tranh của vùng và quốc gia4.
Trong bối cảnh nông nghiệp, liên kết vùng giúp xây dựng các chuỗi giá trị bền vững từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, đồng thời giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường và bảo đảm lợi ích lâu dài cho cộng đồng địa phương. Phát triển nông nghiệp bền vững, theo Báo cáo Brundtland (1987) là quá trình phát triển đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Một mô hình nông nghiệp bền vững cần bảo đảm 3 yếu tố chính: (1) Tính kinh tế, thông qua việc tăng năng suất và giá trị gia tăng của nông sản; (2) Tính xã hội, bằng cách cải thiện đời sống và sinh kế của người dân, đặc biệt là nông dân ở các vùng sâu, vùng xa; (3) Tính môi trường, thông qua việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ hệ sinh thái. Liên kết vùng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững bằng cách tạo ra sự hợp tác giữa các địa phương trong việc chia sẻ nguồn lực, phát triển hạ tầng và xây dựng các cụm ngành hàng chủ lực5.
Mối quan hệ giữa liên kết vùng và phát triển nông nghiệp bền vững được thể hiện qua việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng nông sản. Ví dụ, liên kết vùng có thể giúp các địa phương phối hợp trong việc xây dựng hệ thống kho bãi và vận chuyển, từ đó giảm chi phí logistics và tăng khả năng tiếp cận thị trường. Ngoài ra, liên kết vùng còn thúc đẩy hợp tác giữa các chủ thể trong chuỗi giá trị, bao gồm chính quyền địa phương, doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân, tạo ra một hệ sinh thái nông nghiệp bền vững và hiệu quả hơn.
3. Thực trạng chính sách liên kết vùng tại tỉnh Đắk Lắk
Đắk Lắk là trung tâm kinh tế của vùng Tây Nguyên, với diện tích đất nông nghiệp chiếm hơn 60% tổng diện tích tự nhiên và dân số nông thôn chiếm gần 70% dân số toàn tỉnh. Các ngành hàng chủ lực của tỉnh bao gồm cà phê (sản lượng hàng năm khoảng 500.000 tấn, chiếm 1/3 sản lượng cả nước), hồ tiêu (30.000 tấn) và các loại trái cây như bơ, sầu riêng và chanh dây6. Những năm gần đây, tỉnh đã triển khai nhiều chính sách liên kết vùng nhằm thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững, dựa trên các văn bản pháp lý, như: Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Các chính sách liên kết vùng tập trung vào một số lĩnh vực chính sau:
(1) Phát triển hạ tầng logistics: đầu tư vào các tuyến đường liên tỉnh, như Quốc lộ 14 nối với Gia Lai và Lâm Đồng và xây dựng các kho bãi tại các huyện trọng điểm như Krông Pắk và Ea Kar. Tuy nhiên, tiến độ đầu tư còn chậm và nhiều tuyến đường vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển nông sản.
(2) Hỗ trợ hợp tác xã và doanh nghiệp: tỉnh đã ban hành các chính sách hỗ trợ tài chính cho hợp tác xã, như chương trình vay vốn ưu đãi để đầu tư máy móc chế biến. Tuy nhiên, quy mô hỗ trợ còn hạn chế và nhiều hợp tác xã chưa đủ năng lực để tham gia chuỗi giá trị liên vùng.
(3) Hợp tác với các tỉnh lân cận: Đắk Lắk đã ký kết một số thỏa thuận hợp tác với Gia Lai và Lâm Đồng trong việc phát triển chuỗi giá trị cà phê và hồ tiêu. Ví dụ, dự án xây dựng thương hiệu “Cà phê Tây Nguyên” đã được triển khai, nhưng hiệu quả còn thấp do thiếu sự đồng bộ trong kế hoạch hành động giữa các tỉnh.
Thực tiễn triển khai cho thấy liên kết vùng đã mang lại một số kết quả tích cực. Kim ngạch xuất khẩu cà phê của tỉnh tăng 15% trong giai đoạn 2020 – 20237, phần lớn nhờ sự hợp tác với các doanh nghiệp xuất khẩu tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, việc kết nối thị trường thông qua hợp tác xã đã giúp nông dân tiếp cận được các kênh tiêu thụ mới, giảm sự phụ thuộc vào thương lái. Với vai trò là trung tâm kinh tế của Tây Nguyên, Đắk Lắk có tiềm năng trở thành một “cực tăng trưởng”, lan tỏa lợi ích kinh tế đến các tỉnh lân cận thông qua các chuỗi giá trị nông sản. Một điểm đáng chú ý là vai trò của chính quyền địa phương trong việc điều phối liên kết vùng. Tại Đắk Lắk, chính quyền đã có những nỗ lực đáng ghi nhận, ban hành các chính sách hỗ trợ hợp tác xã và đầu tư hạ tầng logistics. Tuy nhiên, sự thiếu đồng bộ trong cơ chế điều phối và mâu thuẫn lợi ích giữa các địa phương đã làm giảm hiệu quả của các chính sách này.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình triển khai liên kết vùng tại Đắk Lắk đã bộc lộ mộtsố hạn chế, bao gồm:
Một là, thiếu đồng bộ trong cơ chế điều phối vùng. Các chính sách liên kết vùng còn chồng chéo và thiếu tính thống nhất. Ví dụ, trong khi Quy hoạch vùng Tây Nguyên thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu phát triển ngành cà phê bền vững, các tỉnh trong vùng lại chưa thống nhất được kế hoạch hành động chung, dẫn đến sự lãng phí nguồn lực và cạnh tranh không lành mạnh.
Hai là, tính cục bộ địa phương và lợi ích ngắn hạn. Một số địa phương trong vùng ưu tiên lợi ích riêng, như tập trung vào sản xuất thô để tối ưu hóa lợi nhuận, thay vì hợp tác để phát triển chuỗi giá trị bền vững. Điều này làm giảm hiệu quả của các dự án liên kết vùng, như dự án xây dựng thương hiệu “Cà phê Tây Nguyên”.
Ba là, thiếu cơ chế tài chính hỗ trợ liên kết. Các dự án liên kết vùng, như đầu tư kho bãi và vận chuyển, đòi hỏi nguồn vốn lớn, nhưng hiện nay tỉnh Đắk Lắk và các tỉnh lân cận chưa có cơ chế tài chính đủ mạnh để hỗ trợ các dự án này. Theo thống kê, chỉ khoảng 20% hợp tác xã tại Đắk Lắk nhận được hỗ trợ tài chính từ các chương trình của tỉnh trong giai đoạn 2020 – 20238.
Bốn là, hạn chế trong năng lực quản lý và dữ liệu thông tin. Hệ thống thông tin vùng chưa được xây dựng hoàn chỉnh, gây khó khăn trong việc quản lý chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Ví dụ, nhiều lô hàng cà phê xuất khẩu của Đắk Lắk chưa đáp ứng được tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc của các thị trường khó tính như Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ9.
4. Kết luận và khuyến nghị
Liên kết vùng là một yếu tố thiết yếu để thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững tại Đắk Lắk, giúp tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo đảm sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Qua phân tích thực trạng, nghiên cứu đã làm rõ các thành tựu đạt được, như: tăng kim ngạch xuất khẩu cà phê và cải thiện khả năng tiếp cận thị trường của nông dân. Tuy nhiên, liên kết vùng tại Đắk Lắk vẫn còn nhiều hạn chế, bao gồm sự thiếu đồng bộ trong cơ chế điều phối, tính cục bộ địa phương, thiếu cơ chế tài chính hỗ trợ và hạn chế trong năng lực quản lý và dữ liệu thông tin. Để khắc phục các hạn chế này và thúc đẩy liên kết vùng hiệu quả hơn, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp và định hướng chính sách, cụ thể:
Thứ nhất, cần xây dựng thể chế điều phối vùng rõ ràng. Thiết lập một tổ chức điều phối vùng có tính pháp lý, với sự tham gia của đại diện từ các tỉnh Tây Nguyên nhằm bảo đảm sự hợp tác chặt chẽ và giải quyết mâu thuẫn lợi ích giữa các địa phương. Tổ chức này cần có quyền hạn cụ thể trong việc phân bổ nguồn lực, giám sát thực thi và đánh giá hiệu quả các dự án liên kết vùng.
Thứ hai, phát triển các cụm liên kết ngành hàng chủ lực. Tỉnh Đắk Lắk nên tập trung phát triển các cụm ngành hàng chủ lực như cà phê, hồ tiêu và trái cây, với trọng tâm là chế biến sâu để gia tăng giá trị. Ví dụ, có thể xây dựng các khu chế biến cà phê tập trung tại các huyện trọng điểm như Krông Pắk và Ea Kar, đồng thời hợp tác với các tỉnh lân cận để phát triển thương hiệu “Cà phê Tây Nguyên” trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, tăng cường đầu tư hạ tầng logistics. Chính phủ và chính quyền địa phương cần ưu tiên đầu tư vào các tuyến đường liên tỉnh, kho bãi và hệ thống vận chuyển lạnh để giảm chi phí logistics và bảo đảm chất lượng nông sản trong quá trình vận chuyển. Ví dụ, việc nâng cấp quốc lộ 14 và xây dựng các trung tâm logistics tại Buôn Ma Thuột sẽ giúp kết nối hiệu quả hơn giữa Đắk Lắk và các tỉnh lân cận.
Thứ tư, hỗ trợ doanh nghiệp và hợp tác xã. Cần có các chính sách hỗ trợ tài chính, như vay vốn ưu đãi và trợ cấp, để doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư vào công nghệ chế biến và tham gia chuỗi giá trị liên vùng. Đồng thời, tỉnh cần tổ chức các chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực quản lý và kỹ thuật cho hợp tác xã, từ đó tăng cường sự tham gia của họ vào các dự án liên kết vùng.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ số trong quản trị vùng. Việc xây dựng một hệ thống dữ liệu vùng, bao gồm thông tin về sản lượng, thị trường và truy xuất nguồn gốc sản phẩm, là cần thiết để hỗ trợ quản lý chuỗi cung ứng và đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ, tỉnh Đắk Lắk có thể triển khai ứng dụng Blockchain để truy xuất nguồn gốc cà phê, giúp nâng cao uy tín và giá trị sản phẩm trên thị trường toàn cầu.
Các giải pháp trên không chỉ giúp Đắk Lắk khai thác hiệu quả tiềm năng nông nghiệp mà còn tạo tiền đề để khu vực Tây Nguyên trở thành một trong những vùng sản xuất nông sản hàng đầu của Việt Nam, đóng góp vào mục tiêu phát triển bền vững của cả nước trong giai đoạn 2025 – 2030 và trong giai đoạn tiếp theo.
Chú thích:
1. François Perroux (1955). Note sur la notion de “pôle de croissance”. Économie Appliquée, Paris.
2. Area definition and classification and regional development finance: The European Union and China. https://www. sussex.ac.uk/webteam/gateway/file.php?name=area-definition-andclassification&site=2 (truy cập ngày 20.5.2025).
3. Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên) (2013). Giáo trình Kinh tế và quản lý vùng. H. NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, tr. 12.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Thế giới (2016). Báo cáo Việt Nam 2035: Hướng tới Thịnh vượng, Sáng tạo, Công bằng và Dân chủ, tr. 174.
5. Brundtland, G. H. (1987). Our Common Future. Oxford: Oxford University Press.
6. Phạm Hồng Thu (2021). Thực trạng phát triển nông nghiệp tại Tây Nguyên: Cơ hội và thách thức. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 12(5), tr 23 – 35.
7, 8, 9. Tổng cục Thống kê – Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2024). Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội năm 2024, tr. 6, 30, 55.