Một số giải pháp góp phần xây dựng nông thôn hiện đại trong giai đoạn hiện nay

ThS. Hoàng Trung Dũng
Trường Đại học Xây dựng Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng nông thôn hiện đại là một trong những mục tiêu trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội bền vững của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những năm qua, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã được ban hành nhằm phát triển toàn diện khu vực nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn. Bài viết đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn hiện đại ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình phát triển nông thôn theo hướng hiện đại, bền vững.

Từ khóa: Nông thôn; nông thôn hiện đại; phát triển; kinh tế – xã hội.

1. Đặt vấn đề

Nông thôn hiện đại không chỉ là không gian cư trú có hạ tầng phát triển mà còn là nơi hội tụ các điều kiện sống an toàn, bền vững và văn minh cho cộng đồng cư dân nông thôn. Một nông thôn hiện đại cần bảo đảm sự phát triển đồng bộ về kinh tế – xã hội và môi trường. Trong đó, người dân là trung tâm, là chủ thể sáng tạo và hưởng lợi chính từ các thành quả phát triển. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, già hóa dân số, chuyển dịch lao động và yêu cầu chuyển đổi xanh, việc nghiên cứu một cách hệ thống thực trạng và đề xuất các giải pháp phù hợp, hiệu quả nhằm thúc đẩy quá trình hiện đại hóa nông thôn là vấn đề hết sức cấp thiết, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước theo hướng bền vững.

2. Thành tựu và hạn chế trong xây dựng nông thôn hiện đại 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng tư tưởng cho việc kiến tạo xây dựng nông thôn mới theo hướng hiện đại và văn minh; đồng thời, nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Năm 1947, trong tác phẩm “Đời sống mới”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn”; “Đời sống mới không phải là cái gì cao xa, khó khăn mà chỉ là sửa lại những việc cần thiết trong đời sống hàng ngày đó là cách ăn, cách ở, cách mặc, cách đi lại, cách làm việc; đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ, cái gì cũng làm mới”1… Sự hình thành tư tưởng về nông thôn mới đánh dấu bước khởi đầu cho việc định hình mô hình phát triển nông thôn theo hướng hiện đại, phù hợp với yêu cầu của một quốc gia vừa giành được độc lập.

Khái niệm “nông thôn mới” được đề cập lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (năm 1960): “… biến nông dân cá thể thành nông dân tập thể, biến sản xuất cá thể thành sản xuất tập thể, phát triển sản xuất và xây dựng nông thôn mới”; “… cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và vǎn hóa của nhân dân lao động, làm cho nhân dân ta được ăn no, mặc ấm, tăng thêm sức khỏe, có thêm nhà ở và được học tập, mở mang sự nghiệp phúc lợi công cộng, xây dựng đời sống mới ở nông thôn và thành thị”; “… mở mang trường học, nhà văn hóa, phòng đọc sách báo, nâng cao chất lượng các trạm y tế, sửa sang đường sá, cầu cống… xây dựng dần dần nông thôn mới”2.

Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ định hướng phát triển của “tam nông” trong giai đoạn mới là: “thực hiện có hiệu quả chủ trương cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”3. Mô hình phát triển dựa trên ba trụ cột, gồm: nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại  nông dân văn minh phản ánh một xu thế đổi mới toàn diện về nội dung, phương thức tổ chức và định hướng phát triển nông thôn trong thời kỳ hiện đại hóa.

Quá trình xây dựng nông thôn hiện đại đã đem lại những thành tựu nổi bật, tạo ra những chuyển biến to lớn, toàn diện, có tầm chiến lược trong lịch sử phát triển nông thôn Việt Nam. Thành tựu đó đã làm thay đổi cả diện mạo và chất lượng phát triển nông thôn.

Thứ nhất, quá trình xây dựng nông thôn hiện đại đã góp phần làm thay đổi một cách căn bản và sâu sắc nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng như người dân về vai trò và vị trí chiến lược của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Ba yếu tố này không chỉ đóng vai trò nền tảng trong cơ cấu phát triển bền vững mà còn được xác định là tiềm năng và lợi thế quan trọng cần được khai thác hiệu quả nhằm thúc đẩy tăng trưởng toàn diện.

Thứ hai, chương trình xây dựng nông thôn hiện đại đã phát triển thành một phong trào sâu rộng với sức lan tỏa mạnh mẽ trên phạm vi toàn quốc, huy động được sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương, cũng như sự đồng thuận và hưởng ứng của toàn thể nhân dân. Trong tiến trình đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội đã thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội và góp phần nâng cao hiệu quả thực thi dân chủ ở cơ sở, đồng thời phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn hiện đại.

Thứ ba, chương trình xây dựng nông thôn hiện đại đã góp phần quan trọng trong việc thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, đặc biệt thông qua việc thúc đẩy phát triển và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội trên diện rộng, bao gồm cả các khu vực khó khăn, như: vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới và hải đảo. Đồng thời, môi trường và cảnh quan nông thôn ngày càng được cải thiện theo hướng sáng – xanh – sạch – đẹp; các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy; trật tự an toàn xã hội và ổn định chính trị được duy trì vững chắc; đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn không ngừng được nâng cao.

Trong năm 2023, mức thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt khoảng 4,17 triệu đồng/tháng, phản ánh sự cải thiện đáng kể về đời sống kinh tế của người dân4. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều tiếp tục xu hướng giảm, chỉ còn ở mức 5,71%5, cho thấy hiệu quả của các chính sách an sinh xã hội và phát triển toàn diện khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, sự chênh lệch phát triển giữa vùng nông thôn và đô thị từng bước được thu hẹp, minh chứng cho tiến trình phát triển cân bằng và bao trùm trong chiến lược phát triển quốc gia. Chỉ số phát triển con người tăng liên tục với 0,726 năm 20226 đứng thứ 107 trên 193 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Thứ tư, cơ cấu kinh tế ở khu vực nông thôn đang có xu hướng chuyển dịch theo hướng tích cực, trong đó khu vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn ghi nhận tốc độ tăng trưởng nhanh chóng. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, với sự hình thành ngày càng rõ nét của các vùng chuyên canh, dựa trên việc khai thác hiệu quả lợi thế so sánh của từng địa phương, vùng, miền. Những vùng chuyên canh ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thị trường trong nước cũng như quốc tế. Đồng thời, mối liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị nông nghiệp ngày càng được củng cố và mở rộng. Các hợp tác xã nông nghiệp đã và đang phát huy vai trò là cầu nối quan trọng, vừa liên kết các hộ nông dân với nhau, vừa kết nối nông dân với doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ nông sản. Tính đến hết tháng 12/2024, cả nước có khoảng 21.700 hợp tác xã nông nghiệp và 36.000 tổ hợp tác nông nghiệp7

Thứ năm, Chương trình xây dựng nông thôn hiện đại là chương trình duy nhất cho đến nay đã thiết lập được một hệ thống tổ chức chỉ đạo, điều hành và quản lý thống nhất, vận hành xuyên suốt từ trung ương đến cấp cơ sở. Hệ thống này ngày càng được hoàn thiện theo hướng chuyên nghiệp hóa. Đồng thời, vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng và chính quyền địa phương được củng cố và phát huy hiệu quả rõ nét, gắn chặt với thực tiễn triển khai. Qua đó, đã xuất hiện nhiều mô hình điển hình có tính lan tỏa cao góp phần thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa nông thôn

Bên cạnh những kết quả tích cực trên, việc thực hiện xây dựng nông thôn hiện đại cũng gặp một số khó khăn nhất định:

Một là, kết quả xây dựng nông thôn hiện đại ở một số khu vực vẫn chưa đạt được mức độ phát triển đồng đều so với tổng thể quốc gia. Sự chênh lệch về mức độ thực hiện các tiêu chí giữa các vùng, miền vẫn tồn tại rõ rệt. Các khu vực như đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ đã đạt tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới rất cao, lần lượt là 100% và 97%. Tuy nhiên, tại một số khu vực khác, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, tỷ lệ này còn khá khiêm tốn, với con số tương ứng là 52,6% và 62,2%8.

Hai là, theo các quy định của Quốc hội, trong giai đoạn 2021 – 2025, các xã đặc biệt khó khăn và các huyện nghèo không được phép sử dụng nguồn vốn từ ngân sách trung ương trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia nhằm triển khai các mục tiêu xây dựng nông thôn hiện đại. Tại các địa phương, như: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Sơn La, Điện Biên, Bình Định, Kon Tum, nơi còn đối mặt với những khó khăn về điều kiện kinh tế, việc cân đối và phân bổ đủ nguồn vốn từ ngân sách địa phương là rất hạn chế. Điều này cũng làm tăng khó khăn trong việc huy động các nguồn lực khác để thực hiện các chương trình phát triển nông thôn hiện đại.

Ba là, công tác chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình sản xuất trong ngành Nông nghiệp hiện nay diễn ra với tốc độ tương đối chậm, dẫn đến hiệu quả sản xuất chưa được đồng đều giữa các khu vực. Việc thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn vẫn còn hạn chế. Đồng thời, sự phát triển của các làng nghề cũng chưa thực sự mạnh mẽ, năng lực hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp vẫn còn nhiều điểm yếu, khiến cho việc mở rộng quy mô sản xuất và thực hiện các mô hình liên kết chuỗi giá trị gặp khó khăn. Bên cạnh đó, một số địa phương chưa chú trọng đúng mức đến việc quy hoạch vùng sản xuất tập trung gắn liền với các sản phẩm chủ lực, cũng như chưa có nhiều nỗ lực trong việc nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả. Các hoạt động xây dựng thương hiệu sản phẩm nông sản chưa được quan tâm đầy đủ và thị trường tiêu thụ các sản phẩm này vẫn gặp không ít khó khăn.

Bốn là, một số địa phương hiện nay đang có biểu hiện chững lại trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn hiện đại, đặc biệt là thiếu sự quan tâm đến việc duy trì tính bền vững của các kết quả đã đạt được cũng như nâng cao chất lượng các tiêu chí sau khi đạt chuẩn. Trong đó, các tiêu chí liên quan đến môi trường, thu nhập của người dân và bảo đảm an ninh trật tự xã hội chưa được chú trọng đúng mức. Bên cạnh đó, chất lượng của các công trình hạ tầng kỹ thuật ở một số nơi đã xuống cấp do thiếu cơ chế bảo trì, bảo dưỡng và chưa được đầu tư nguồn lực phù hợp để duy trì hiệu quả hoạt động lâu dài.

Năm là, sự tham gia của cấp ủy đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị – xã hội tại một số địa phương còn thiếu tính quyết liệt và chưa thực sự phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm được giao. Bên cạnh đó, năng lực hạn chế của đội ngũ cán bộ cấp huyện, cấp xã, đặc biệt tại các khu vực vùng sâu, vùng xa và địa bàn khó khăn cũng là nguyên nhân cản trở việc thực hiện hiệu quả Chương trình. Những hạn chế này thể hiện rõ qua các khâu, như: lập và phê duyệt dự toán, nghiệm thu, thanh quyết toán các dự án đầu tư xây dựng.

3. Một số giải pháp xây dựng nông thôn hiện đại 

Trong định hướng phát triển đất nước thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, Đảng xác định: “Nông dân, người dân nông thôn thực sự là trung tâm, chủ thể, động lực, mục tiêu của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn”9. Bối cảnh kỷ nguyên chuyển đổi số, biến đổi khí hậu và tái cấu trúc nền kinh tế đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới tư duy phát triển nông thôn, tăng cường liên kết vùng và phát huy nội lực cộng đồng. Song song với đó, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chính trị ở cơ sở theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả là điều kiện bảo đảm cho việc triển khai đồng bộ các chương trình, mục tiêu. Để nâng cao hiệu quả thực hiện xây dựng nông thôn hiện đại, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền. Để khắc phục sự chênh lệch trong kết quả xây dựng nông thôn hiện đại giữa các vùng, miền cần có định hướng chính sách ưu tiên đầu tư phát triển cho những địa phương có tỷ lệ xã đạt chuẩn thấp. Việc phân bổ nguồn lực cần gắn với đặc điểm tự nhiên, xã hội của từng vùng, đồng thời thiết kế các mô hình phát triển kinh tế – xã hội phù hợp, như: phát triển nông nghiệp bản địa, du lịch cộng đồng, lâm nghiệp bền vững. Bên cạnh đó, cần tăng cường liên kết vùng để thúc đẩy hợp tác trong sản xuất, tiêu thụ và phát triển chuỗi giá trị, giúp các tỉnh còn khó khăn có điều kiện tiếp cận với công nghệ, thị trường và nguồn lực từ các vùng phát triển hơn.

Thứ hai, bổ sung cơ chế tài chính cho các xã đặc biệt khó khăn. Một trong những rào cản lớn trong tiến trình xây dựng nông thôn hiện đại là việc các xã, huyện thuộc diện đặc biệt khó khăn không được bố trí vốn từ ngân sách trung ương. Đồng thời, cần tăng cường huy động nguồn lực xã hội hóa từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế và cộng đồng thông qua các chính sách minh bạch, hiệu quả và có ưu đãi rõ ràng. Ngoài ra, việc trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các địa phương trong xây dựng kế hoạch và phân bổ ngân sách sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tính phù hợp với nhu cầu thực tế.

Thứ ba, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình sản xuất là yêu cầu cấp thiết để nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn hiện đại. Các địa phương cần tập trung phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, gắn với ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sinh thái và tuần hoàn nhằm tăng năng suất và hiệu quả sản xuất. Việc quy hoạch vùng sản xuất tập trung theo lợi thế so sánh và phát triển sản phẩm chủ lực cần được gắn chặt với xây dựng thương hiệu, tiêu chuẩn hóa chất lượng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Mặt khác, để tăng sức hút đầu tư vào nông nghiệp – nông thôn, cần cải thiện môi trường đầu tư, giảm chi phí tiếp cận đất đai và tín dụng; đồng thời, đẩy mạnh hỗ trợ cho các hợp tác xã về quản trị, thị trường và chuyển đổi số. Đây là tiền đề để xây dựng chuỗi liên kết giá trị bền vững, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân nông thôn.

Thứ tư, bảo đảm tính bền vững và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Một số địa phương đã đạt chuẩn nông thôn mới đang có dấu hiệu chững lại, do đó cần đặc biệt quan tâm đến việc duy trì bền vững kết quả và nâng cao chất lượng các tiêu chí. Trước hết, cần xây dựng hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá định kỳ, đặc biệt với các tiêu chí nhạy cảm, như: môi trường, thu nhập, an ninh trật tự. Việc duy tu, bảo trì cơ sở hạ tầng nông thôn cần được đưa vào kế hoạch thường xuyên với nguồn kinh phí bảo đảm. Cùng với đó, khuyến khích các mô hình nâng cao chất lượng tiêu chí như “xã nông thôn mới nâng cao”, “nông thôn mới kiểu mẫu”, gắn với phát triển kinh tế số, du lịch nông thôn và bảo tồn văn hóa truyền thống sẽ giúp địa phương duy trì đà phát triển bền vững và nâng cao đời sống tinh thần cho người dân.

Thứ năm, nâng cao vai trò của chính quyền địa phương và năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở. Sự vào cuộc chưa đồng bộ và quyết liệt của chính quyền các cấp là nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện chương trình nông thôn hiện đại tại một số địa phương. Để khắc phục tình trạng này, cần đẩy mạnh phân công trách nhiệm rõ ràng, gắn kết quả thực hiện với trách nhiệm của người đứng đầu. Đồng thời, cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở về quản lý dự án, lập kế hoạch, sử dụng ngân sách, đặc biệt là tại vùng sâu, vùng xa, nơi trình độ chuyên môn còn hạn chế. Triển khai các mô hình hỗ trợ, như: luân chuyển cán bộ, cố vấn kỹ thuật từ cấp tỉnh, trung ương về cơ sở sẽ giúp nâng cao năng lực điều hành và quản lý. Ngoài ra, việc phát huy vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội trong tuyên truyền, vận động và giám sát cũng góp phần tạo nên sức mạnh cộng đồng, thúc đẩy tiến trình xây dựng nông thôn mới toàn diện, hiệu quả hơn.

4. Kết luận

Xây dựng nông thôn hiện đại là một quá trình toàn diện, lâu dài, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và sự tham gia tích cực của người dân. Những kết quả đã đạt được trong thời gian qua là minh chứng cho sự đúng đắn trong chủ trương, chính sách phát triển nông thôn của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền và hướng đến mục tiêu phát triển bền vững cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa tư duy, hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao năng lực quản lý và huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp đề ra sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nông thôn hiện đại, nơi không chỉ có đời sống vật chất đầy đủ, mà còn giàu giá trị văn hóa, bền vững về môi trường và hài hòa trong phát triển.

Chú thích: 

1. Tân Sinh (2020). Đời sống mới. H. NXB Trẻ.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1960). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam. H. NXB Sự thật.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 124.

4. Tổng cục Thống kê (2023). Thông cáo báo chí kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2023.

5. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (2024). Quyết định số 134/QĐ-BLĐTBXH ngày 31/01/2024 công bố kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2023 theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2022 – 2025.

6. UNDP (2023). Báo cáo Phát triển con người (HDR) 2023/24.

7. Năm 2024, cả nước có trên 14.300 hợp tác xã nông nghiệp hoạt động hiệu quả.https://consosukien.vn/nam-2024-ca-nuoc-co-tren-14-300-hop-tac-xa-nong-nghiep-hoat-dong-hieu-qua.html

8. Văn phòng Điều phối Nông thôn mới Trung ương (2025). Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; định hướng thực hiện giai đoạn 2026 – 2030.

9. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.