TS. Bùi Thị Hồng Thúy
Học viện Ngân hàng
(Quanlynhanuoc.vn) – Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều rào cản cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân từ cơ chế chính sách và yếu kém nội tại của khu vực này. Bài viết phân tích sự đóng góp và những rào cản cản trở sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân thời gian qua, từ đó, đề xuất giải pháp để phát triển mạnh mẽ, hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Từ khóa: Kinh tế tư nhân; động lực; phát triển; kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
1. Đặt vấn đề
Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân Việt Nam đã có bước phát triển về mọi mặt từ sự nhận thức về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đến thực tiễn đóng góp của kinh tế tư nhân cho nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Do vậy, để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đề ra và đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới, việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân nhằm xây dựng nền kinh tế Việt Nam thịnh vượng, với mục tiêu tăng trưởng hai con số.
2. Quá trình vận động đổi mới tư duy, quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân
Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế năm 1986 đến nay, quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân từ chỗ không được công nhận đến công nhận nhưng chưa coi trọng, sau đó, được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia1. Quá trình chuyển đổi về nhận thức là một hành trình kéo dài, nhiều thập kỷ, cụ thể:
Đầu tiên tại Văn kiện Đại hội VI(năm 1986), chúng ta còn do dự khi đưa vào Văn kiện: “Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ) trong một số lĩnh vực, ngành, nghề”. Ngay sau đó, tại Văn kiện Đại hội VII (năm 1991) đã nêu: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”. Tiếp đến, Văn kiện Đại hội VIII (năm 1996) nêu: “Kinh tế tư bản tư nhân có khả năng góp phần xây dựng đất nước”. Văn kiện Đại hội IX (năm 2001) cho rằng: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất – kinh doanh mà pháp luật không cấm”. Đến Văn kiện Đại hội X (năm 2006) đã có bước tiến thay đổi căn bản, mạnh mẽ về quan điểm, nhận thức khi nhấn mạnh: “Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành, nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”. Để bổ sung thêm, Văn kiện Đại hội XI (năm 2011) nêu: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”. Sau đó, cácvăn kiện Đại hội XII (năm 2016) và Đại hội XIII (năm 2021) tiếp tục nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”.
Lần đầu tiên “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh, tuần hoàn, bền vững” được thừa nhận trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Dođó, Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ là một văn bản định hướng mà còn thể hiện sự thay đổi sâu sắc về tư duy của Đảng và Nhà nước trong việc đánh giá vai trò kinh tế tư nhân.
Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị quyết chính là chủ trương chuyển từ nền hành chính công vụ, quản lý là chủ yếu sang phục vụ và kiến tạo phát triển, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm; đồng thời, yêu cầu tuân thủ nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm hình sự với hành chính, dân sự; giữa pháp nhân và cá nhân trong xử lý vi phạm… Nghị quyết số 68-NQ/TW nêu rõ: trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo. Không hồi tố các quy định pháp luật để xử lý bất lợi cho doanh nghiệp. Đối với các vụ việc thiếu chứng cứ, chứng cứ không rõ ràng phải sớm có kết luận, tránh ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động sản xuất – kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, doanh nhân. Bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội trong quá trình điều tra, xét xử các vụ án.
3. Đóng góp của kinh tế tư nhân vào tăng trưởng kinh tế
Sau gần 40 năm đổi mới, nước ta đã có hơn 940 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó 98% là doanh nghiệp vừa và nhỏ, khoảng 14,4 nghìn hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Năm 2024, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50,4% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, sửdụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. Hằng năm, riêng khu vực kinh tế hộ cá thể hiện đang đóng góp khoảng 30% GDP. Đến hết năm 2024, cả nước có khoảng 5 triệu hộ kinh doanh, trong đó chỉ có 1,7 triệu hộ đã đăng ký, có mã số thuế, trong khi phần lớn còn lại (3,3 triệu hộ) vẫn chưa đăng ký. Số 1,7 triệu hộ kinh doanh có đăng ký chỉ đóng góp khoảng 1,6% tổng thu ngân sách nhà nước. Bình quân, mỗi hộ kinh doanh đóng thuế 2,7 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, khu vực này đang tạo ra gần 8,5 triệu việc làm, chiếm 37% tổng số lao động trong khu vực doanh nghiệp, cao hơn so với doanh nghiệp ngoài nhà nước (37%), doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (22%) và vượt xa so với doanh nghiệp nhà nước (4,3%). Điều này cho thấy, mô hình hộ kinh doanh phổ biến đến mức nào đối với người dân Việt Nam2. Ngoài ra, khu vực kinh tế tư nhân còn góp phần quan trọng vào việc xóa đói, giảm nghèo, giảm chênh lệch phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị và nông thôn3.
Trong quá trình phát triển, đã xuất hiện một lực lượng doanh nghiệp tư nhân lớn, tích lũy đủ năng lực về quy mô vốn, trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp, có thương hiệu tại thị trường khu vực và thế giới, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, như: Tập đoàn Vingroup, Massan, Sun Group, Vietjet, Hòa Phát, Tập đoàn TH, Tập đoàn T&T Thaco…
Tính đến cuối năm 2023, tổng tài sản của các doanh nghiệp tư nhân lớn đạt khoảng hơn 70 tỷ USD4, trong đó một số doanh nghiệp tư nhân lớn đã chủ động chuyển đổi, mạnh dạn đầu tư vào các ngành công nghiệp mới; tiên phong đổi mới mô hình kinh doanh theo hướng xanh, tuần hoàn, khu công nghiệp sinh thái. Từng bước phát triển trở thành lực lượng dẫn dắt, lan tỏa, kéo theo sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước hiện đang nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao. Việc huy động được khối tài sản này cùng với công nghệ, kiến thức, trình độ quản trị, nguồn nhân lực chất lượng cao của các doanh nghiệp bổ sung một nguồn lực lớn cho nền kinh tế, góp phần bảo đảm tính tự chủ của kinh tế đất nước5.
4. Hạn chế, bất cập đối với sự phát triển kinh tế tư nhân hiện nay
Thứ nhất, mặc dù đã xuất hiện các doanh nghiệp vừa và lớn, tuy nhiên, vẫn chưa thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt nền kinh tế quốc dân như kỳ vọng. Tỷ trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, nhất là trong các lĩnh vực mới, như: sản xuất năng lượng sạch, chip, vi mạch, bán dẫn, hydrogen, dự án xanh, khu công nghiệp sinh thái… còn thấp, chưa có các dự án quy mô đủ lớn để tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ tái cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ hai, quy mô doanh nghiệp trong nền kinh tế phần lớn là nhỏ và vừa, chưa làm chủ công nghệ lõi, chưa đủ tiềm lực để số hóa và xanh hóa, tuần hoàn hoạt động kinh doanh. Cụ thể như sau: về quy mô, doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm khoảng 69%; doanh nghiệp nhỏ chiếm khoảng 25%; còn lại doanh nghiệp quy mô vừa chiếm 3,5% và doanh nghiệp lớn chỉ khoảng 2,5%. Có thể thấy, doanh nghiệp trong nước ngày càng bị đẩy vào tình thế “teo tóp” vì doanh nghiệp siêu nhỏ không thể tiếp cận các nguồn vốn vay từ ngân hàng6.
Trong giai đoạn 2021 – 2024, đã có gần 3.000 quy định về điều kiện kinh doanh được cắt giảm, đơn giản hóa tại 243 văn bản quy phạm pháp luật, đạt khoảng 18% trên tổng số 15.801 quy định điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn khoảng 13.000 điều kiện kinh doanh tồn tại trong các văn bản pháp luật. Báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2024 cho thấy, có tới 61% doanh nghiệp gặp khó khăn khi thực hiện thủ tục cấp phép kinh doanh có điều kiện, 61,36% doanh nghiệp phải trả chi phí không chính thức, 21,7% doanh nghiệp gặp khó khăn về cấp giấy phép kinh doanh, buộc phải trì hoãn hoặc hủy bỏ kế hoạch kinh doanh7.
Thứ ba, thiếu động lực phát triển, tình trạng doanh nghiệp không muốn lớn, hay chỉ phát triển đến một mức độ nào đó thì bán cho nước ngoài; tư duy phát triển ngắn hạn, trong nhiều trường hợp là vi phạm pháp luật, cạnh tranh không lành mạnh…
Thứ tư, thiếu nội lực, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là thiếu vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực chất lượng cao, thông tin thị trường… Thiếu định hướng phát triển dài hạn, kể cả từ phía Nhà nước lẫn doanh nghiệp.
Thứ năm, thiếu sự kết nối giữa doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân với nhau, giữa khu vực kinh tế tư nhân với khu vực FDI, với khu vực nhà nước và với chiến lược phát triển quốc gia; thiếu các cơ chế, chính sách hỗ trợ hiệu quả.
5. Một số kiến nghị chính sách để phát triển kinh tế tư nhân trong kỷ nguyên mới
Thứ nhất, tháo bỏ định kiến về kinh tế tư nhân. Cần cụ thể hóa quan điểm “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia” trong Nghị quyết số 68-NQ/TW. Khi đó, mọi rào cản, giáo điều, định kiến sẽ được gỡ bỏ, giúp thổi bùng năng lực nội sinh của quốc gia, dân tộc, thúc đẩy phát triển thịnh vượng. Điều này là đặc biệt quan trọng, bởi vì chỉ khi tư duy được đổi mới và có sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động thì mới có thể có được các cơ chế, chính sách phù hợp và thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Cần đổi mới tư duy từ chú trọng quản lý sang kiến tạo phát triển, từ hỗ trợ trước đầu tư sang “thưởng sau” đầu tư.
Thứ hai, thực hiện chương trình “cách mạng” triệt để về tinh giản các quy định pháp luật, minh bạch hóa, số hóa và tự động hóa các quy trình, thủ tục hành chính đối với người dân, doanh nghiệp và tổ chức trên cơ sở ứng dụng rộng rãi công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), để: (1) Xóa bỏ sự chống chéo không thống nhất, mâu thuẫn trong quy định của các luật có liên quan đến phát triển khu vực kinh tế tư nhân; (2) Đơn giản hóa và minh bạch hóa các quy trình, thủ tục hành chính; tiến tới cắt bỏ hoàn toàn các điều kiện kinh doanh không cần thiết giảm chi phí kinh doanh, chi phí tuân thủ, chi phí không chính thức; giảm thời gian thực hiện các thủ tục)…; (3) Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, tránh trùng lắp; (4) Xây dựng cơ chế tham vấn, đối thoại thường xuyên, liên tục rà soát để tháo gỡ các điểm nghẽn…; (5) Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu thành lập một tổ công tác đặc biệt với thành phần chủ yếu là các chuyên gia độc lập, có kinh nghiệm, có trải nghiệm, có tâm huyết và có kiến thức trong cải cách pháp luật, cải cách thể chế.
Thứ ba, cần có chiến dịch truyền thông liên tục và kéo dài về kinh tế tư nhân về sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong xây dựng và phát triển kinh tế, đặc biệt nhấn mạnh đến việc tạo việc làm, tạo thu nhập, đóng góp vào thu ngân sách.
Thứ tư, hỗ trợ kinh tế tư nhân trên ba trụ cột quan trọng là đất đai, vốn và công nghệ. Về tiếp cận đất đai, giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với nhà đầu tư đã mua, thu gom để thực hiện dự án đầu tư; cácdự án của nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao được triển khai ngoài các cụm công nghiệp, khu công nghiệp thì được hưởng các chính sách như đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế.
Về tiếp cận vốn, ngoài các chương trình tín dụng và các hỗ trợ khác của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần nghiên cứu, thành lập các quỹ đầu tư đa sở hữu sớm nhất có thể (đa dạng, nhiều cấp độ quốc gia, địa phương và huy động vốn cộng đồng), cung cấp các loại vốn (thiên thần, mạo hiểm, đầu tư dài hạn…) cho tổ chức kinh tế tư nhân đầu tư phát triển.
Về khoa học – công nghệ và nghiên cứu phát triển, thực hiện kích cầu của doanh nghiệp về nghiên cứu phát triển và hỗ trợ nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp bằng các giải pháp sau: (1) Nhà nước thông qua các quỹ khoa học – công nghệ (quốc gia, ngành và địa phương) hỗ trợ doanh nghiệp mua công nghệ; thực hiện các sáng kiến, dự án nghiên cứu phát triển do doanh nghiệp đề xuất và được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận; (2) Doanh nghiệp tự tài trợ một phần để thực hiện sáng kiến, dự án nghiên cứu phát triển nói trên; đồng thời, tự nghiên cứu hoặc thuê tổ chức, chuyên gia nghiên cứu bên ngoài thực hiện; (3) Sản phẩm nghiên cứu thu được thuộc sở hữu của doanh nghiệp và được tự do sử dụng theo nhu cầu phát triển của doanh nghiệp; (4) Tạo khung khổ pháp lý với những ưu đãi vượt trội nhằm khuyến khích doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức và cá nhân thành lập các viện khoa học – công nghệ chuyên nghiên cứu phát triển, tư vấn và chuyển giao công nghệ.
Thứ năm, Chính phủ nghiên cứu xây dựng ban hành Chương trình nhằm phát triển kinh tế tư nhânViệt Nam, trước mắt tập trung vào các vấn đề sau:
Chương trình khuyến khích minh bạch hóa, chính thức hóa hộ kinh doanh cá thể và chuyển đổi tự nguyện hộ cá thể thành doanh nghiệp theo hướng bỏ chế độ thuế khoán; đồng thời, áp dụng nguyên tắc quản lý càng công khai, minh bạch và chính quy thì càng có lợi.
Chương trình khởi nghiệp, gồm cả khởi nghiệp sáng tạo và khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chiến lược và chính sách thu hút đầu tư nước ngoài yêu cầu các doanh nghiệp FDI phải bảo đảm tỷ lệ kết nối tối thiểu với doanh nghiệp tư nhân trong nước trong chuỗi cung ứng của họ.
Chương trình huy động và khuyến khích doanh nghiệp quy mô lớn thực hiện chiến lược phát triển các ngành kinh tế quan trọng (công nghiệp bán dẫn, AI, công nghiệp nền tảng, công nghiệp công nghệ số…), các dự án lớn, quan trọng quốc gia, gồm các dự án nghiên cứu phát triển công nghệ cốt lõi; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp lớn đầu tư mở rộng kinh doanh ra thị trường nước ngoài, qua đó, cạnh tranh, xâm nhập thị trường nước ngoài để từng bước trở thành tập đoàn kinh tế quy mô khu vực và toàn cầu.
Chương trình đào tạo và nâng cao trình độ kiến thức cho doanh nhân, quản lý doanh nghiệp về quản trị doanh nghiệp, công nghệ số và AI, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, văn hóa doanh nhân và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp…
Chương trình phát triển kinh tế tư nhân, nhất là trụ cột phát triển doanh nghiệp dân tộc quy mô lớn, phải gắn với xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước.
Thứ sáu, cần có chính sách đặc biệt nhằm phát triển doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: xây dựng tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn; Nhà nước giao nhiệm vụ, đặt hàng cho doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn (thông qua việc lựa chọn nhà thầu/nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt để thực hiện các nhiệm vụ, dự án trọng điểm của quốc gia); xây dựng luồng xanh trong thủ tục đầu tư nhằm giảm thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực: ngành công nghiệp sản xuất ô tô, ngành công nghiệp đường sắt tốc độ cao, điện gió ngoài khơi, công nghiệp bán dẫn, lĩnh vực ngành nghề xanh…; xây dựng nhóm chính sách đặc biệt cho các doanh nghiệp dân tộc, doanh nghiệp quy mô lớn trong một số ngành, lĩnh vực.
6 Kết luận
Kinh tế tư nhân đang ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam qua 40 năm đổi mới. Tuy nhiên, để hướng tới một nền kinh tế độc lập, tự chủ, tự cường, năng động, năng lực cạnh tranh cao, chủ động hội nhập quốc tế, khu vực kinh tế tư nhân cần có bước chuyển mình mạnh mẽ để nâng cao vị thế, nâng cao chất lượng đóng góp vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Khắc phục các yếu kém nội tại của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân là điều kiện cần, nâng cao hiệu quả can thiệp của Nhà nước với vai trò kiến tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thuận lợi, có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển là điều kiện đủ để nâng cao chất lượng lực lượng doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân.
Chú thích:
1, 3. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân.
2. Lê Duy Bình (2024). Xác định địa vị pháp lý cho hộ kinh doanh tại Việt Nam: Chìa khóa để chính thức hóa. Văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế.
4, 6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024). Báo cáo Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2024. H. NXB Thống kê.
5. Phát biểu của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư tại Hội nghị của Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp về giải pháp góp phần phát triển kinh tế – xã hội đất nước, ngày 21/9/2024 tại Hà Nội.
7. VCCI (2024). Báo cáo mức độ hài lòng của doanh nghiệp về việc thực hiện thủ tục hành chính qua cơ chế một cửa quốc gia và các thủ tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành.