Giảm nghèo bền vững ở xã Yên Châu, tỉnh Sơn La hiện nay

Đỗ Thị Nhi
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

(Quanlynhanuoc.vn) – Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về giảm nghèo bền vững, tác giả đánh giá thực trạng giảm nghèo bền vững ở xã Yên Châu, tỉnh Sơn La hiện nay. Qua tổng kết những kết quả đã đạt được, đồng thời chỉ ra một số khó khăn, thách thức trong giảm nghèo bền vững và đưa ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục giảm nghèo bền vững tại xã Yên Châu, tỉnh Sơn La. Những kiến nghị không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân mà còn đóng góp vào sự phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân xã Yên Châu nói riêng và cả nước nói chung.

Từ khóa: Giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, xã Yên Châu, tỉnh Sơn La.

1. Đặt vấn đề

Giảm nghèo bền vững là một trong những nhiệm vụ trọng tâm thể hiện tính nhân văn và ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Nhận thức sâu sắc điều này, thời gian qua, xã Yên Châu, tỉnh Sơn La đã triển khai nhiều giải pháp thiết thực nhằm cải thiện đời sống người dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo và ngăn chặn tình trạng tái nghèo. Tuy nhiên, Yên Châu vẫn nằm trong danh sách các xã đặc biệt khó khăn của tỉnh, với tỷ lệ hộ nghèo còn cao, kết cấu hạ tầng yếu, điều kiện sản xuất hạn chế và đời sống người dân còn bấp bênh. Trước thực trạng đó, bài viết tập trung phân tích những kết quả đạt được trong công tác giảm nghèo tại xã Yên Châu, đồng thời chỉ ra những tồn tại, thách thức đang đặt ra. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp mang tính căn cơ, lâu dài như: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư hạ tầng thiết yếu, phát triển sinh kế bền vững và tăng cường chính sách an sinh xã hội nhằm hướng tới mục tiêu giảm nghèo toàn diện, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững ở địa phương.

2. Quan niệm và nội dung về giảm nghèo bền vững

2.1. Quan niệm về giảm nghèo bền vững

Liên hiệp quốc định nghĩa giảm nghèo bền vững là quá trình kéo dài, bảo đảm người dân không chỉ thoát nghèo trong ngắn hạn mà còn được trao quyền, tiếp cận giáo dục, y tế, việc làm và cơ hội phát triển bền vững để không rơi trở lại tình trạng nghèo đói1.

Trong mục tiêu phát triển bền vững (SDG), mục tiêu số 1 là: “Xóa nghèo dưới mọi hình thức ở mọi nơi”, trong đó nhấn mạnh đến việc xóa nghèo bền vững, không để ai bị bỏ lại phía sau2.

Tại Việt Nam, Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 – 2020 đã nêu: “Giảm nghèo bền vững là trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư”.

Theo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, kèm theo Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ đã nêu: “Thực hiện mục tiêu giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững, hạn chế tái nghèo và phát sinh nghèo; hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo vượt lên mức sống tối thiểu, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản theo chuẩn nghèo đa chiều quốc gia, nâng cao chất lượng cuộc sống…”.

Như vậy, giảm nghèo bền vững là sự tác động của Nhà nước, xã hội và nỗ lực của chính người nghèo nhằm không chỉ giúp người nghèo thoát khỏi tình trạng nghèo tạm thời mà còn đạt được mức sống vượt trên mức tối thiểu. Quá trình này bảo đảm rằng chất lượng cuộc sống được cải thiện và duy trì lâu dài, tạo ra nền tảng và cơ hội phát triển bền vững cho người nghèo, giúp họ phát triển khả năng tự lực mà không bị tái nghèo. Hay có thể hiểu theo nghĩa giản đơn, giảm nghèo bền vững là không bị tái nghèo.

2.2. Nội dung giảm nghèo bền vững

Thứ nhất, tăng và duy trì thu nhập trên mức tối thiểu cho người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo.

Tăng thu nhập trên mức tối thiểu cho người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo là tạo các điều kiện thuận lợi để họ có cơ hội cải thiện đời sống kinh tế, thoát khỏi tình trạng thu nhập dưới mức chuẩn nghèo (khu vực nông thôn: 1.500.000 đồng/người/tháng; khu vực thành thị: 2.000.000 đồng/người/tháng3. Điều này có thể thực hiện thông qua việc mở rộng cơ hội việc làm, hỗ trợ đào tạo nghề, cung cấp tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất – kinh doanh. Hiện nay, phần lớn người nghèo phụ thuộc vào thu nhập từ sức lao động. Sức lao động của người nghèo chỉ được sử dụng để đem lại thu nhập khi họ có công việc ổn định, bảo đảm được cuộc sống của bản thân. Nếu người lao động có sức khỏe, được đào tạo tốt, công việc ổn định lâu dài, cùng với đó là ý chí làm việc hăng say thì năng suất lao động sẽ tăng lên, từ đó thu nhập của người nghèo sẽ khá hơn, dễ có cơ hội để vươn lên thoát nghèo. Tuy nhiên trong thực tế, lao động các công việc không ổn định là khá phổ biến với người nghèo.

Để giảm nghèo bền vững, cần đầu tư phát triển hạ tầng, kết nối thị trường, hỗ trợ người nghèo tiếp cận tốt hơn với khoa học kỹ thuật, vốn và kinh nghiệm sản xuất. Phần lớn người nghèo sống ở vùng khó khăn, nơi dân trí thấp và hạ tầng yếu dễ bị tái nghèo nếu thiếu hỗ trợ lâu dài. Vì vậy, cần chính sách bảo hiểm, trợ giúp khi gặp rủi ro, đào tạo kỹ năng, nâng cao năng lực sản xuất và xây dựng môi trường kinh tế ổn định nhằm duy trì thu nhập bền vững cho các hộ nghèo, cận nghèo.

Thứ hai, tăng và duy trì khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo, hộ nghèo.

Tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo là bảo đảm cho họ có cơ hội tiếp cận bình đẳng với giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin và việc làm, giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống và thoát khỏi nghèo đói. Để đạt được điều này, cần triển khai các chính sách hỗ trợ phù hợp như: miễn, giảm học phí cho học sinh nghèo; xây dựng trường họ và cơ sở y tế bảo đảm số lượng và chất lượng tại các vùng khó khăn; cung cấp bảo hiểm y tế cho hộ nghèo; cải thiện hạ tầng nước sạch và vệ sinh môi trường; mở rộng hệ thống thông tin và viễn thông đến vùng sâu, vùng xa; tạo cơ hội việc làm thông qua đào tạo nghề, hướng nghiệp và hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất. Việc tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản là một trong những nền tảng quan trọng để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.

Duy trì khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo là yếu tố then chốt để bảo đảm công bằng và giảm tái nghèo. Điều này giúp người nghèo tiếp cận dịch vụ lâu dài, kể cả khi điều kiện khách quan thay đổi, như: thiên tai, dịch bệnh hay khủng hoảng kinh tế. Cần xây dựng cơ chế bảo vệ linh hoạt, như: trợ giá, dịch vụ công bền vững, an sinh xã hội dự phòng và thích ứng với biến đổi. Đây không chỉ là bảo vệ quyền lợi mà còn tạo nền tảng ổn định để người nghèo tự vươn lên, hòa nhập bền vững vào xã hội.

Thứ ba, khơi dậy tinh thần chủ động, vươn lên thoát nghèo.

Khơi dậy tinh thần chủ động thoát nghèo là quá trình tạo động lực để người nghèo không ỷ lại vào trợ cấp mà tự nỗ lực cải thiện đời sống. Nếu chỉ trông chờ hỗ trợ, họ dễ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo. Ngược lại, khi có ý thức vươn lên, người nghèo sẽ chủ động học tập, nâng cao kỹ năng, tìm mô hình sản xuất phù hợp để tăng thu nhập. Để làm được điều đó, công tác tuyên truyền, giáo dục cần được tiến hành thường xuyên, thiết thực nhằm thay đổi nhận thức của người dân; đồng thời tạo điều kiện tiếp cận vốn vay ưu đãi, đào tạo nghề, hướng dẫn sản xuất, kết nối thị trường thúc đẩy phát triển kinh tế giảm đói nghèo cho bà con hộ nghèo.

2.3. Thực trạng giảm nghèo bền vững ở xã Yên Châu hiện nay

Yên Châu là xã miền núi với hơn 70% đồng bào dân tộc thiểu số. Tổng diện tích tự nhiên là 85.735ha, phần lớn là đồi núi, địa hình chia cắt phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, nhất là vào mùa mưa, gây ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế – xã hội của xã. Yên Châu vẫn là xã nghèo so với mặt bằng chung của tỉnh Sơn La. Đời sống người dân trong xã còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao. Nắm bắt được tình hình trên, xã Yên Châu đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ với quyết tâm giảm nghèo bền vững trên địa bàn.

Trong giai đoạn 2016 – 2020, tỷ lệ hộ nghèo của xã Yên Châu đã giảm từ khoảng 42,51% năm 2016 xuống còn khoảng 31,01% năm 20194 đến hết năm 2020 xuống còn khoảng 27.83%5 (theo tiêu chí của Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19/11/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020), đưa Yên Châu trở thành một trong những xã đầu tiên của tỉnh Sơn La về đích sớm trong thực hiện mục tiêu của Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020.

Trong giai đoạn 2021 – 2025, tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm từ 28,43% năm 2021 xuống còn 20,12% năm 20236 (theo tiêu chí Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 của Chính phủ về quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025); 100% số hộ khó khăn về nhà ở giai đoạn 2021 – 2025 đã hoàn thành, sớm hơn so với kế hoạch đề ra7; 100% người dân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn được cấp thẻ bảo hiểm y tế8; 100% hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có nhu cầu và đủ điều kiện được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất9. Năm 2024, xã đã hỗ trợ đào tạo nghề cho hơn 2.000 người thuộc các xã đặc biệt khó khăn và mở 19 lớp đào tạo nghề cho 500 lao động nông thôn. Chính sách hỗ trợ về giáo dục cho học sinh con em hộ nghèo đã góp phần tạo điều kiện cho trẻ em đi học đúng độ tuổi, duy trì tỷ lệ học sinh đến trường, tạo sự động viên, khích lệ rất lớn trong học tập đối với học sinh nghèo, không để các em học sinh bỏ học giữa chừng. Đã hỗ trợ miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho gần 50.00 lượt học sinh, với tổng số tiền trên 50 tỷ đồng10.

Chương trình giảm nghèo bền vững được triển khai đồng bộ từ các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, đặc biệt là sự tham gia đóng góp của cộng đồng dân cư. Các chương trình hỗ trợ người nghèo được thực hiện kịp thời, một số mô hình chăn nuôi, phát triển sản xuất được nhân rộng, góp phần giảm nghèo bền vững. Với sự hướng dẫn của địa phương, các hộ dân đã liên kết thành hợp tác xã nông nghiệp an toàn Chiềng Hặc sản xuất xoài theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP trên diện tích 25ha, trong đó 14,5ha đã được cấp chứng nhận VietGAP. Hợp tác xã còn liên kết với 64 hộ dân trồng xoài trên địa bàn, nâng tổng diện tích liên kết lên gần 160ha. Đến cuối năm 2024, hơn 300ha xoài tại các bản Nà Ngà, Huổi Sét, Huổi Mong và Văng Lùng được công nhận là vùng trồng xoài ứng dụng công nghệ cao. Năm 2024, xã Yên Châu đã xuất khẩu khoảng 4.000 tấn xoài, mang lại giá trị ước tính 1,3 triệu USD, tương đương trên 33 tỷ đồng11.

Bên cạnh đó, mặc dù là điểm sáng của tỉnh Sơn La về giảm nghèo nhưng công cuộc giảm nghèo bền vững ở xã Yên Châu vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, như: sau một năm triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn huyện giai đoạn 2020 – 2025 của UBND xã Yên Châu, tỷ lệ hộ nghèo tuy đã giảm nhưng còn chậm, có nơi chưa bền vững, nhiều hộ thoát nghèo nhưng thu nhập không ổn định”12. Trên cơ sở đánh giá các kế hoạch, chương trình giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn xã Yên Châu, tỉnh Sơn La cho thấy những vấn đề sau:

Thứ nhất, kết quả giảm nghèo chưa bền vững, chưa duy trì được thu nhập trên mức tối thiểu cho người nghèo, hộ nghèo.

Số hộ thoát nghèo chủ yếu chuyển sang hộ cận nghèo, nhiều hộ thoát nghèo nhưng thu nhập không ổn định và có nguy cơ tái nghèo cao. Tỷ lệ hộ cận nghèo tăng qua các năm, từ năm 2016 – 2020 tăng khoảng 1,56% (trung bình 0,3%/năm); từ năm 2021 – 2023 tăng khoảng 0,24% (trung bình 0,08%/năm)13. Đời sống của một bộ phận người dân còn gặp khó khăn, nhất là người dân các dân tộc ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa vẫn còn xảy ra tình trạng đói giáp hạt. Thực trạng này kéo dài qua nhiều năm nhưng chưa được khắc phục triệt để.

Cơ sở hạ tầng của xã được đầu tư xây dựng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Việc sử dụng các công trình ở một số cơ sở còn yếu. Kinh phí đầu tư còn dàn trải vì vậy các công trình hạ tầng cơ sở như giao thông, thủy lợi, nước sinh hoạt,…hầu hết đều có quy mô nhỏ, đơn giản, hằng năm phải tu bổ14.

Hệ thống các kế hoạch về giảm nghèo vẫn phức tạp, nhiều tầng nấc, khó khăn cho việc tiếp cận của người dân. Một số kế hoạch chưa phù hợp, chưa giải quyết triệt để khó khăn, như: kế hoạch đầu tư nguồn lực lao động nông thôn là người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, quân nhân xuất ngũ trên địa bàn xã, kế hoạch cử tuyển,… chưa gắn với sử dụng sau đào tạo và chưa phù hợp với đặc điểm, điều kiện của địa phương. Điều này đã gây trở ngại không nhỏ tới hoạt động tìm kiếm việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người nghèo, hộ cận nghèo.

Nguồn lực dành cho công tác giảm nghèo dàn trải trong nhiều kế hoạch, có kế hoạch khi bố trí được nguồn lực đầu tư đã vào tháng cuối, năm cuối của giai đoạn thực hiện, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện của các đơn vị và các xã. Việc huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp, người dân còn hạn chế. Các kế hoạch ưu đãi về đất đai, thuế, tín dụng, hỗ trợ thị trường phù hợp với đặc điểm địa phương nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất – kinh doanh tại địa bàn xã chưa mang lại hiệu quả như kỳ vọng. Công  tác quy hoạch giao đất, giao rừng tại các xã, bản chưa được thực hiện triệt để.

Thứ hai, sự thiếu hụt trong tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo, hộ nghèo còn lớn.

Tỷ lệ người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn tham gia bảo hiểm y tế đạt mục tiêu, nhưng nguyên nhân chủ yếu do địa phương sử dụng ngân sách nhà nước trong việc huy động nguồn lực để hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế cho các đối tượng thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội chỉ đạt 6,11% năm 2021, giai đoạn 2021 – 2023 chỉ đạt 16%15 (trung bình 5,3%/năm). Cơ sở vật chất, nhân lực của các trạm y tế xã chưa đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng, do đó chưa tạo được niềm tin của người dân vào chất lượng dịch vụ y tế tuyến cơ sở.

Chỉ tiêu vệ sinh hộ gia đình, vệ sinh môi trường chưa bảo đảm theo quy định (công trình vệ sinh hộ gia đình do người dân tự thiết kế, sử dụng và bảo quản); công trình vệ sinh công cộng một số hạng mục xây dựng còn chưa theo hướng dẫn và giám sát của ngành Y tế.

Thứ ba, chưa đạt hiệu quả cao trong các hoạt động khơi dậy tinh thần chủ động, vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo.

Việc thực hiện chính sách, kế hoạch hỗ trợ có điều kiện mới chỉ dừng lại ở chương trình tín dụng ưu đãi, các mô hình sản xuất (vốn đối ứng) hoặc cam kết thoát nghèo chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của các bên liên quan để có thêm nhiều chính sách đa dạng và phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương; chưa khích lệ được sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo.

Công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ giảm nghèo nhanh và bền vững chưa đạt hiệu quả cao. Các bản tin và phóng sự với nội dung tuyên truyền về giảm nghèo bền vững chưa cập nhật hình thức truyền đạt thông tin bằng ngôn ngữ địa phương khiến nhiều người dân tộc thiểu số chưa thông thạo ngôn ngữ phổ thông khó tiếp cận.

Nguyên nhân của những khó khăn:

(1) Về phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền: đội ngũ cán bộ, công chức, người tham gia làm công tác giảm nghèo bền vững ở cơ sở thiếu tính ổn định, đặc biệt là đội ngũ trưởng bản, tiểu khu trưởng còn thiếu kinh nghiệm, hạn chế trong nhận thức và thực hiện chính sách, chưa có cách tiếp cận hiệu quả với các vấn đề mới nảy sinh; chưa năng động, sáng tạo, còn có tư tưởng trông chờ, phụ thuộc vào cơ quan cấp trên.

(2) Về phía người nghèo, hộ nghèo: trình độ dân trí chưa đồng đều giữa các vùng, đặc biệt trình độ học vấn của đồng bào các dân tộc ở các bản vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn mức thấp, thiếu kiến thức cơ bản dẫn đến việc áp dụng các kiến thức, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống, sản xuất gặp rất nhiều khó khăn.

(3) Về điều kiện kinh tế – xã hội: Yên Châu là xã miền núi với trình độ sản xuất của người dân còn lạc hậu. Tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh diễn ra thường xuyên và trên diện rộng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và đời sống của người dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng cao biên giới. Kết cấu hạ tầng cơ sở không đồng bộ, còn thiếu và yếu kém chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế – xã hội của xã. Bên cạnh đó, nguồn lực thực hiện các kế hoạch giảm nghèo bền vững phụ thuộc phần lớn vào nguồn vốn trung ương và bị phân tán, dàn trải; việc lồng ghép nguồn lực còn khó khăn do mỗi kế hoạch, chương trình, dự án có các mục tiêu khác nhau.

3. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục giảm nghèo bền vững ở xã Yên Châu

Một là, tăng và duy trì thu nhập trên mức tối thiểu cho người nghèo, hộ nghèo.

Để phát triển bền vững và giảm nghèo hiệu quả, cần tập trung hoàn thiện cơ chế một cách đồng bộ, đầu tư cho giáo dục, hạ tầng cơ sở, sản xuất. Trước hết, giáo dục và đào tạo phải đổi mới theo hướng hiện đại, gắn lý thuyết với thực hành, đầu tư cơ sở vật chất phù hợp với điều kiện phát triển. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thông qua đào tạo thường xuyên và tiếp cận phương pháp giáo dục tiên tiến. Song song với đó đó, cần chú trọng phát triển kỹ năng mềm cho người dân, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập.

Về hạ tầng, cần khảo sát thực trạng tại khu vực có nhiều hộ nghèo để xác định nhu cầu của người dân, từ đó phân bổ hợp lý nguồn vốn từ ngân sách, các chương trình hỗ trợ quốc tế và từ các doanh nghiệp. Ưu tiên đầu tư giao thông, nước sạch, điện, trường học, trạm y tế và thủy lợi phục vụ sản xuất của người dân. Cần giám sát chặt chẽ việc phân bổ nguồn vốn từ ngân sách để tránh thất thoát, lãng phí nguồn lực.

Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp cũng là giải pháp trọng tâm. Cần khai thác cây trồng chủ lực như: chuối, xoài, mận…, theo chuỗi giá trị cung ứng, phục vụ cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Nhà nước cần hỗ trợ tiêu thụ nông sản, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, nơi người dân chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu.

Cuối cùng, cần chủ động kiến nghị cơ quan cấp trên xây dựng chính sách, cơ chế riêng để đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình hạ tầng thiết yếu. Huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội, trong đó ngân sách nhà nước giữ vai trò quyết định nhằm thu hút đầu tư từ cộng đồng và doanh nghiệp, đồng thời đa dạng hóa hình thức đầu tư, khuyến khích người dân tham gia phát triển dịch vụ xã hội cơ bản để cải thiện đời sống cơ bản hằng ngày.

Hai là, tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, hộ nghèo. Cụ thể, cần có chính sách trợ cấp nhà ở, mở rộng hệ thống cung cấp nước sạch đến vùng sâu, vùng xa và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế cơ sở để người dân có thể tiếp cận dễ dàng hơn. Cần tăng cường đầu tư vào giáo dục bằng cách miễn, giảm học phí, cung cấp học bổng và nâng cao chất lượng giảng dạy tại các khu vực khó khăn. Giải quyết tình trạng thiếu nhà ở, nước sinh hoạt; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư ở những nơi cần thiết, bảo đảm ổn định cuộc sống, có việc làm, giải quyết vấn đề giáo dục, y tế, nước sản xuất và sinh hoạt cho người dân.

Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa xây dựng nhà ở nhằm bảo đảm nhà ở cho người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các hộ gia đình chịu thiệt hại lớn do thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu và dịch bệnh. Bên cạnh đó, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông giúp người dân tiếp cận thông tin cần thiết về việc làm, chính sách hỗ trợ và các dịch vụ công. Ngoài ra, chính quyền địa phương cần phối hợp với các tổ chức xã hội, doanh nghiệp để tạo việc làm bền vững, tổ chức đào tạo nghề, giúp người nghèo có cơ hội nâng cao thu nhập và thoát nghèo một cách bền vững.

Ba, khơi dậy tinh thần chủ động, vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo. Trước hết, cần nâng cao nhận thức cho người nghèo về tầm quan trọng của việc tự lực, không trông chờ, ỷ lại vào trợ cấp. Tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo vay vốn, hỗ trợ khởi nghiệp và tiếp cận thị trường một cách chủ động. Song, cần thường xuyên tuyên truyền thông qua các hình thức đa dạng, như: tổ chức các buổi tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông như: đài phát thanh, các cuộc gặp mặt trực tiếp với người dân tại các thôn, xã, khu dân cư. Quá trình tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần tập trung vào việc giới thiệu các kế hoạch, chương trình và dự án hỗ trợ giảm nghèo bền vững, làm rõ các quyền lợi và nghĩa vụ của người dân khi tham gia vào các chương trình này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền bằng cả  ngôn ngữ địa phương và ngôn ngữ phổ thông, phát triển giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và toàn xã hội, nhất là người dân nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong giảm nghèo bền vững; khơi gợi ý chí tự lực, tự cường phát huy nội lực vươn lên thoát nghèo, xây dựng cuộc sống ấm no, không trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội, phấn đấu vì một Việt Nam không còn đói nghèo.

Bốn, tổ chức nâng cao nhận thức và năng lực, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ những người làm công tác giảm nghèo bền vững, đặc biệt đối với cán bộ, công chức, người tham gia công tác giảm nghèo bền vững là người dân tộc thiểu số. Có kế hoạch đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với người dân tộc thiểu số, nhất là nhóm dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Đồng thời, có thể bồi dưỡng thêm các cán bộ, công chức, người tham gia công tác giảm nghèo bền vững không phải là người dân tộc thiểu số các kiến thức về ngôn ngữ của các dân tộc sinh sống trên địa bàn, văn hóa đời sống,… giúp họ hiểu rõ về đời sống người dân. Khi đó, các kế hoạch đưa ra, công tác thực hiện kế hoạch mới phù hợp với thực tiễn và đạt hiệu quả tối ưu.

4. Kết luận

Công tác giảm nghèo bền vững tại xã Yên Châu, tỉnh Sơn La đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, góp phần nâng cao đời sống người dân. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh qua các năm nhờ sự quan tâm, chỉ đạo của chính quyền địa phương. Tuy nhiên, quá trình giảm nghèo bền vững vẫn còn những thách thức như nguy cơ tái nghèo cao, thiếu hụt sự tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản, nguồn lực bị phân tán, hạ tầng chưa đồng bộ, nhận thức và năng lực về giảm nghèo bền vững của một số tổ chức, cá nhân còn hạn chế và tư tưởng trông chờ, ỷ lại từ một bộ phận người dân. Để tiếp tục giảm nghèo bền vững, cần tập trung phát triển giáo dục, cải thiện hạ tầng, hỗ trợ sinh kế bền vững, nâng cao năng lực người tham gia công tác giảm nghèo bền vững và tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành và sự tham gia tích cực của toàn xã hội sẽ là yếu tố then chốt để công tác giảm nghèo bền vững tại xã Yên Châu, tỉnh Sơn La đạt hiệu quả lâu dài.

Chú thích:
1. UNDP (2016). Human Development Report 2016: Human Development for Everyone. United Nations Development Programme. New York.
2. United Nations (2015). Transforming our World: The 2030 Agenda for Sustainable Development. Resolution adopted by the General Assembly on 25 September 2015, A/RES/70/1.
3. Chính phủ (2021). Nghị định số 07/2021/NĐ-CP ngày 27/01/2021 về quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021 – 2025.
4. Ủy ban nhân dân xã Yên Châu (2020). Báo cáo số 570/BC-UBND ngày 28/7/2020 về kết quả 6 năm thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 ngày 24/6/2014 của Quốc hội về đẩy mạng thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020.
5. Ban Chỉ đạo các Chương trình mục tiêu Quốc gia (2021). Báo cáo số 01/BC-BCĐ ngày 01/8/2021 về kết quả thực hiện Chương trình giảm nghèo 6 tháng đầu năm 2021 và Phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2021.
6, 7, 8, 9, 15. Ủy ban Nhân dân xã Yên Châu (2024). Báo cáo số 369/BC-UBND ngày 22/4/2024 về kết quả 3 năm thực hiện một số Nghị quyết số 06-NQ/HU của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện về chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn xã, giai đoạn 2020 – 2025.
10, 13, 14. Ủy ban nhân dân xã Yên Châu (2025). Báo cáo số 32/BC-UBND ngày 17/01/2025 về tổng kết Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025, đề xuất Chương trình giai đoạn 2026 – 2030.
11. Tập trung chăm sóc cây ăn quả phục vụ thị trường xuất khẩu. https://trangtraiviet.danviet.vn/tap-trung-cham-soc-cay-an-qua-phuc-vu-thi-truong-xuat-khau-d140876.html.
12. Ủy ban nhân dân xã Yên Châu (2021). Báo cáo số 686/BC-UBND ngày 12/8/2021 về kết quả một năm triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn xã giai đoạn 2020 – 2025.