Thượng tá, ThS. Phạm Văn Ngọc
Trung tá, ThS. Phạm Quốc Huy
Học viện Chính trị, Bộ Quốc Phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trước yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và yêu cầu xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, việc nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên, đặc biệt là giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trở thành yêu cầu cấp bách. Văn hóa đọc đóng vai trò then chốt trong việc tích lũy tri thức, kinh nghiệm, phát triển năng lực tư duy và góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, làm rõ nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm bồi dưỡng văn hóa đọc, nâng cao năng lực chuyên môn và hiệu quả công tác giảng dạy cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay.
Từ khóa: Bồi dưỡng văn hóa đọc; giảng viên khoa học xã hội và nhân văn; học viện, trường sĩ quan quân đội.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, nguồn nhân lực chất lượng cao đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của đất nước nói chung và lĩnh vực quốc phòng, an ninh nói riêng. Trong đó, đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội giữ vai trò đặc biệt quan trọng, trực tiếp góp phần đào tạo nên những cán bộ, sĩ quan vừa có năng lực chuyên môn, vừa có phẩm chất chính trị, đạo đức vững vàng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới. Một trong những yếu tố then chốt ảnh hưởng đến năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học và khả năng cập nhật tri thức của đội ngũ giảng viên chính là văn hóa đọc.
Thực tiễn cho thấy, văn hóa đọc không chỉ là cơ sở để giảng viên nâng cao kiến thức chuyên môn mà còn thúc đẩy sự sáng tạo, đổi mới tư duy, nâng cao kỹ năng giảng dạy, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của các nhà trường quân đội. Chính vì vậy, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm bồi dưỡng văn hóa đọc cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Điều này, không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên mà còn trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong giai đoạn mới.
2. Văn hóa đọc và tầm quan trọng của bồi dưỡng văn hóa đọc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa về văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”1. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh: “Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”2. Văn hóa gắn bó chặt chẽ với con người, đồng thời phản ánh trình độ văn minh của từng cá nhân và cộng đồng xã hội qua các thời kỳ lịch sử. Điều này được thể hiện rõ qua các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo, nhằm hướng tới việc xây dựng hệ giá trị chuẩn mực về chân – thiện – mỹ.
Đảng cũng đã khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của văn hóa Việt Nam khi cho rằng: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hoá Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”3. Văn hóa Việt Nam, với bề dày lịch sử trên 4 ngàn năm, mang trong mình những đặc trưng riêng biệt của cộng đồng các dân tộc, đồng thời luôn có sự vận động, phát triển phù hợp với từng thời kỳ, điều kiện xã hội và những biến chuyển của thế giới.
Khi bàn về văn hóa đọc, có nhiều quan niệm đa dạng và phong phú. Phần lớn các định nghĩa đều tập trung vào khía cạnh đọc sách, bao gồm: sách chính luận, sách lý luận chính trị, sách chuyên khảo, tham khảo, sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu học tập, sách phổ biến tri thức khoa học, các tác phẩm văn học – nghệ thuật và các loại sách tra cứu như từ điển. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của đời sống chính trị, văn hóa – xã hội, hệ thống báo chí, tạp chí khoa học và chuyên ngành (in ấn) cũng phát triển mạnh mẽ, trở thành nguồn thông tin phong phú, cập nhật kịp thời các kiến thức mới trong mọi lĩnh vực của đời sống trong nước và quốc tế. Nhiều người coi việc đọc báo, tạp chí hằngngày như một nhu cầu văn hóa – tinh thần thiết yếu trong cuộc sống.
Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển vượt bậc, với sự ra đời và ứng dụng rộng rãi các phương tiện truyền thông hiện đại, văn hóa đọc đã được mở rộng thêm về phạm vi và hình thức. Các loại sách, báo, tạp chí điện tử, bao gồm cả các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn kiện Đảng, các tác phẩm văn học, nghệ thuật… đều được phát hành trên nền tảng công nghệ số. Đồng thời, các trang mạng xã hội và các hệ thống internet cũng trở thành kênh truyền tải, tiếp nhận thông tin, kiến thức một cách nhanh chóng và đa dạng. Hoạt động đọc vì thế không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận trực tiếp các ấn phẩm in trên giấy mà còn bao gồm cả việc đọc các tài liệu trên nền tảng số bằng các thiết bị, như: máy tính, điện thoại thông minh, máy tính bảng…
Như vậy, quan niệm về văn hóa đọc hiện đại là sự tổng hòa giữa việc đọc truyền thống và đọc trên nền tảng số, đòi hỏi một tư duy mới trong cách tiếp cận và thực hiện. Việc đổi mới tư duy về văn hóa đọc không chỉ là xu hướng tất yếu, phù hợp với sự phát triển không ngừng của khoa học – công nghệ mà còn đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của người đọc trong thời đại số. Do đó, không thể tuyệt đối hóa văn hóa đọc theo phương pháp truyền thống cũng như chỉ tập trung vào văn hóa đọc qua phương tiện công nghệ thông tin. Thay vào đó, cần khai thác và phát huy tối đa ưu việt của cả hai phương pháp này để bồi dưỡng và phát triển văn hóa đọc trong xã hội, đặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, những người giữ vai trò then chốt trong việc lan tỏa tri thức, giá trị văn hóa và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho quốc phòng và an ninh quốc gia.
Đối với đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội, việc bồi dưỡng văn hóa đọc có vai trò đặc biệt quan trọng:
Thứ nhất, là điều kiện tiên quyết để nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực nghiên cứu khoa học.
Trình độ chuyên môn của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn không chỉ được thể hiện qua việc truyền đạt kiến thức mà còn dựa vào khả năng cập nhật, tiếp nhận và xử lý thông tin, tri thức mới. Văn hóa đọc giúp giảng viên khoa học xã hội và nhân văn khai thác được nguồn tri thức đa dạng, sâu rộng và cập nhật nhất từ các tài liệu chuyên khảo, công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học và các ấn phẩm học thuật trong nước và quốc tế. Đây chính là cơ sở để giảng viên không ngừng nâng cao chất lượng bài giảng, mở rộng phạm vi nghiên cứu và đề xuất các luận điểm khoa học mới, phù hợp với sự phát triển của xã hội và quân đội. Bên cạnh đó, thói quen đọc thường xuyên và có phương pháp còn giúp giảng viên phát triển khả năng tư duy phản biện, phân tích logic và hệ thống hóa kiến thức những kỹ năng cốt lõi trong nghiên cứu khoa học hiện đại.
Thứ hai, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển năng lực sư phạm và tư duy phản biện.
Việc thường xuyên tiếp cận các nguồn tri thức đa dạng không chỉ giúp giảng viên khoa học xã hội và nhân văn mở rộng vốn hiểu biết mà còn rèn luyện khả năng phân tích, tổng hợp và đánh giá các quan điểm khoa học một cách khách quan và sáng tạo. Trong môi trường giáo dục quân sự, nơi đòi hỏi sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn, lý luận chính trị và giá trị văn hóa, năng lực phản biện giúp giảng viên truyền tải kiến thức một cách thuyết phục, khoa học và có chiều sâu; đồng thời, góp phần hình thành tư duy phản biện và thái độ học tập nghiêm túc, cầu thị cho học viên. Qua đó, văn hóa đọc không chỉ là công cụ hỗ trợ cho hoạt động truyền thụ kiến thức mà còn góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, đổi mới phương pháp sư phạm phù hợp với yêu cầu phát triển quân đội hiện đại.
Thứ ba, là cơ sở quan trọng để củng cố bản lĩnh chính trị và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ giảng viên.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà còn là người định hướng tư tưởng, xây dựng nhân cách và nâng cao nhận thức chính trị cho học viên. Việc thường xuyên nghiên cứu, đọc các tài liệu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, văn kiện Đảng và các giá trị văn hóa truyền thống giúp giảng viên thấm nhuần sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó nâng cao trách nhiệm chính trị, giữ vững lập trường tư tưởng, bản lĩnh chiến đấu, tu dưỡng phẩm chất đạo đức và trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Văn hóa đọc chính là kênh để giảng viên khoa học xã hội và nhân văn tự bồi đắp bản lĩnh và nâng cao năng lực làm chủ tư tưởng trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp, giúp họ có khả năng nhận diện, đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.
Thứ tư, giúp giảng viên thích ứng và phát triển năng lực ứng dụng công nghệ trong giáo dục, đào tạo.
Sự phát triển của các nền tảng số, phương tiện truyền thông hiện đại cùng hệ thống tài liệu điện tử đa dạng đã mở ra những cơ hội mới trong việc tiếp cận tri thức và đổi mới phương pháp dạy học. Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn có văn hóa đọc sẽ biết cách khai thác các nguồn tài liệu số, cập nhật các công nghệ mới, đồng thời vận dụng linh hoạt các phương pháp sư phạm hiện đại như dạy học trực tuyến, học tập kết hợp (blended learning) và phát triển bài giảng đa phương tiện. Qua đó, văn hóa đọc không chỉ giúp nâng cao hiệu quả đào tạo mà còn góp phần xây dựng môi trường học tập sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đào tạo cán bộ, sĩ quan có phẩm chất, năng lực và khả năng thích nghi với sự phát triển nhanh chóng của quân đội hiện đại.
Thứ năm, tạo ra môi trường học thuật tích cực, lan tỏa tinh thần học tập suốt đời trong đội ngũ giảng viên và học viên.
Khi văn hóa đọc trở thành một phần không thể tách rời trong phong cách làm việc và sinh hoạt học thuật của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, nó sẽ thúc đẩy sự giao lưu, trao đổi học thuật, khuyến khích sáng tạo và đổi mới trong nghiên cứu và giảng dạy. Hiệu ứng này góp phần xây dựng cộng đồng học thuật vững mạnh, không ngừng phát triển về mặt chất lượng và quy mô, từ đó nâng cao uy tín và hiệu quả của các học viện, trường sĩ quan quân đội trong công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
3. Thực trạng văn hóa đọc và công tác bồi dưỡng văn hóa đọc cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
a. Về văn hóa đọc
Từ góc độ thói quen và thái độ, đội ngũ giảng viên thể hiện sự phân hóa rõ nét về mức độ chủ động và tích cực trong hoạt động đọc sách và tài liệu khoa học. Một bộ phận giảng viên tích cực duy trì thói quen đọc sâu rộng, có kế hoạch bài bản, coi đó là một trong những hoạt động trọng yếu nhằm liên tục cập nhật kiến thức chuyên ngành, nâng cao năng lực chuyên môn và hỗ trợ hiệu quả cho công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Họ chủ động tiếp cận nguồn tài liệu phong phú, từ sách chuyên khảo, bài báo khoa học trong các tạp chí uy tín đến các công trình nghiên cứu mới trong và ngoài nước; đồng thời, tích cực tham gia các khóa đào tạo, hội thảo chuyên ngành để phát triển tư duy phản biện và nâng cao kỹ năng nghiên cứu.
Bức tranh tổng thể về văn hóa đọc cũng cho thấy, một tỷ lệ không nhỏ giảng viên có thái độ đọc mang tính hình thức, thiếu chủ động trong việc tìm kiếm và khai thác tài liệu khoa học. Đa phần trong số này chỉ thực hiện việc đọc nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy trước mắt hoặc hoàn thành các nhiệm vụ hành chính mà chưa quan tâm sâu sắc đến việc nâng cao tri thức và đổi mới phương pháp sư phạm. Việc đọc không có kế hoạch, thiếu tính hệ thống, cùng với việc hạn chế kỹ năng tiếp cận và xử lý tài liệu khoa học đã dẫn đến việc khó nắm bắt các nghiên cứu chuyên sâu, các xu hướng phát triển mới trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Điều này, làm gia tăng khoảng cách chất lượng giữa các cá nhân trong cùng một môi trường đào tạo, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả đồng bộ và bền vững của công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học nói chung.
Về điều kiện khách quan, văn hóa đọc còn gặp nhiều rào cản đáng kể. Yếu tố thời gian được xác định là trở ngại lớn nhất, do giảng viên chịu áp lực đa dạng từ khối lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, hoạt động quản lý, thực hiện nhiệm vụ chính trị và các nhiệm vụ chuyên môn khác. Sự phân bổ thời gian chưa hợp lý khiến cho việc dành thời gian cho đọc sâu rộng, nghiên cứu tài liệu mới trở nên khó khăn. Hệ thống thư viện truyền thống và cơ sở dữ liệu điện tử dù đã được đầu tư xây dựng nhưngvẫn còn nhiều hạn chế về mặt hạ tầng công nghệ, chưa tích hợp đồng bộ các nguồn tài liệu, chưa đa dạng kênh tiếp cận và thiếu sự hỗ trợ kỹ thuật cũng như hướng dẫn kỹ năng sử dụng hiệu quả. Hệ quả là nhiều giảng viên gặp khó khăn trong việc khai thác triệt để nguồn tài liệu hiện đại và đa dạng.
Hơn nữa, nhiều cán bộ giảng viên chưa được trang bị đầy đủ kỹ năng tra cứu, đánh giá, phân tích và tổng hợp tài liệu khoa học theo tiêu chuẩn quốc tế, dẫn đến việc đọc và nghiên cứu chưa hiệu quả, gây lãng phí thời gian và nguồn lực. Môi trường học thuật ở một số học viện, trường sĩ quan còn thiếu sự hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm, trao đổi chuyên môn thường xuyên, chưa hình thành được văn hóa đọc tập thể và không khí nghiên cứu tích cực. Các chính sách động viên, khuyến khích nghiên cứu, khen thưởng thành tích và bồi dưỡng chuyên môn chưa tạo ra sức hút mạnh mẽ để giảng viên thực sự ưu tiên đầu tư phát triển văn hóa đọc sâu rộng.
b. Về bồi dưỡng văn hóa đọc
Thời gian qua, công tác bồi dưỡng văn hóa đọc cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội đã được quan tâm triển khai với nhiều hình thức và nội dung đa dạng. Các đơn vị đã tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng, tập huấn về kỹ năng đọc tài liệu khoa học, tìm kiếm và khai thác thông tin trên các cơ sở dữ liệu điện tử trong và ngoài nước, đồng thời xây dựng các kho thư viện số, thư viện truyền thống được cập nhật thường xuyên với nguồn tài liệu phong phú và có chất lượng. Bên cạnh đó, việc tổ chức các hội thảo khoa học, câu lạc bộ sách, “Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam”, diễn đàn trao đổi học thuật cũng là kênh quan trọng giúp giảng viên tăng cường trao đổi, thảo luận, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp thu và vận dụng tri thức. Công tác tuyên truyền, phổ biến về vai trò và ý nghĩa của văn hóa đọc cũng được đẩy mạnh nhằm nâng cao nhận thức và khơi dậy niềm đam mê học tập suốt đời trong đội ngũ.
Bên cạnh những kết quả tích cực, công tác bồi dưỡng vẫn còn gặp không ít khó khăn, như: hạn chế về nguồn lực, cơ sở vật chất chưa đồng bộ, một số chính sách hỗ trợ chưa thật sự thiết thực cũng như chưa xây dựng được môi trường học thuật thực sự thúc đẩy văn hóa đọc lan tỏa sâu rộng. Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại hóa thì việc bồi dưỡng văn hóa đọc là một nội dung trọng tâm, cần làm ở các học viện, trường sĩ quan quân đội trong giai đoạn hiện nay.
4. Đề xuất một số giải pháp bồi dưỡng văn hóa đọc cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội
Một là, tạo sự chuyển biến nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng.
Trước hết, cần quán triệt nghiêm túc và triển khai thực chất các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, trong đó tập trung các văn bản, như: Quyết định số 329/QĐ-TTg ngày 15/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 4565/QĐ-BQP ngày 20/9/2023 Bộ Quốc phòng phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội giai đoạn 2023 – 2030 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 91-KL/TW ngày 12/8/2024 của Ban Chấp hành Trung ương, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo… Trên cơ sở đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tích cực đưa nội dung bồi dưỡng văn hóa đọc vào nghị quyết lãnh đạo thường xuyên và định kỳ, nhằm nâng cao nhận thức toàn diện về vai trò quan trọng của văn hóa đọc trong nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy và nghiên cứu của đội ngũ giảng viên.
Cùng với đó, phải xây dựng động cơ, trách nhiệm rõ ràng cho từng tổ chức, lực lượng và cá nhân liên quan trong việc triển khai các chương trình, kế hoạch bồi dưỡng văn hóa đọc. Chú trọng xây dựng, nhân rộng các điển hình tiên tiến, mô hình tiêu biểu trong việc phát triển văn hóa đọc và ứng dụng công nghệ số trong quá trình bồi dưỡng, đồng thời kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại đổi mới để tạo bước chuyển biến rõ nét trong nhận thức và hành động. Quá trình tổ chức thực hiện phải gắn liền với việc thường xuyên đánh giá, sơ kết, rút kinh nghiệm nhằm phát hiện những hạn chế, kịp thời điều chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng văn hóa đọc.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện môi trường học thuật.
Môi trường học thuật đóng vai trò nền tảng quyết định việc hình thành và phát triển thói quen đọc, nghiên cứu của đội ngũ giảng viên. Một môi trường học thuật tích cực không chỉ cung cấp không gian vật lý để giảng viên có thể tiếp cận tài liệu một cách thuận tiện mà còn tạo ra không khí trao đổi, thảo luận chuyên môn thường xuyên và hiệu quả. Các hoạt động, như: câu lạc bộ sách chuyên ngành, hội thảo khoa học, diễn đàn trao đổi tri thức giúp hình thành mạng lưới kết nối học thuật, nâng cao chất lượng đọc và nghiên cứu. Ở các học viện, trường sĩ quan quân đội, việc xây dựng môi trường học thuật đặc thù gắn liền với sứ mệnh đào tạo đội ngũ cán bộ, sĩ quan đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng, như: phòng Khoa học quân sự, cục/phòng Đào tạo), các khoa khoa học xã hội và nhân văn, cơ quan chính trị… nhằm tạo ra một hệ sinh thái học thuật năng động, hỗ trợ tối đa hoạt động đọc và nghiên cứu chuyên sâu.
Ba là, đầu tư cơ sở vật chất, phát triển hệ thống thư viện số và tài nguyên số.
Đầu tư nâng cao cơ sở vật chất, phát triển hệ thống thư viện số và tài nguyên số là giải pháp then chốt, giữ vai trò nền tảng trong việc bồi dưỡng văn hóa đọc cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội. Việc phát triển hệ thống thư viện số theo chuẩn mực của Cục Nhà trường – Bộ Tổng tham mưu, bao gồm: số hóa các tài liệu chuyên khảo, sách tham khảo, bài giảng điện tử và xây dựng kho dữ liệu điện tử phong phú, đa dạng, được cập nhật thường xuyên, tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên dễ dàng truy cập, khai thác và nghiên cứu tài liệu phục vụ công tác giảng dạy cũng như nâng cao trình độ chuyên môn. Đây là giải pháp thiết yếu để “đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo phát triển giáo dục số, giáo dục thông minh”5 trong các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Cùng với đó, việc đầu tư đồng bộ trang thiết bị công nghệ hỗ trợ, như: máy tính hiện đại, đường truyền Internet tốc độ cao, phần mềm quản lý và tra cứu tài liệu tiên tiến góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên số, khắc phục hạn chế về hạ tầng công nghệ, đồng thời thúc đẩy hiệu suất đọc và nghiên cứu của đội ngũ giảng viên được cải thiện rõ rệt. Đặc biệt, việc thiết lập và phát huy cơ chế liên kết, chia sẻ tài nguyên số giữa các học viện, trường sĩ quan quân đội với các thư viện quốc gia và quốc tế không chỉ mở rộng phạm vi tiếp cận tri thức mà còn giúp đa dạng hóa nguồn học liệu, tạo môi trường học tập và nghiên cứu phong phú, hiện đại, phù hợp với yêu cầu ngày càng cao của giáo dục khoa học xã hội và nhân văn trong thời kỳ chuyển đổi số.
Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động trong tự bồi dưỡng văn hóa đọc.
Trước yêu cầu chuyển đổi số và sự phát triển nhanh chóng của tri thức nhân loại, nhu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy đặt ra nhiệm vụ cấp thiết cho đội ngũ giảng viên trong việc nâng cao năng lực tự học và bồi dưỡng văn hóa đọc. Xây dựng nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của tự bồi dưỡng văn hóa đọc, đồng thời tạo động lực cho từng cá nhân chủ động tìm kiếm, chọn lọc và khai thác tài liệu phù hợp chuyên môn và nhiệm vụ được giao. Việc xây dựng kế hoạch tự học, tự đọc bài bản, kết hợp giám sát và hỗ trợ từ cơ quan chức năng (quản lý thư viện ở các học viện, trường sĩ quan) sẽ nâng cao hiệu quả tự bồi dưỡng.
Đồng thời, giảng viên cần khai thác tối đa nguồn tài nguyên số và thư viện điện tử đa dạng, phong phú, kết hợp trang bị đầy đủ các công cụ công nghệ như máy tính hiện đại, đường truyền internet tốc độ cao và phần mềm quản lý tài liệu nhằm nâng cao khả năng tiếp cận và khai thác tri thức. Bên cạnh đó, việc phát triển môi trường đọc tích cực thông qua các nhóm đọc sách chuyên ngành, diễn đàn trao đổi và hội thảo học thuật góp phần thúc đẩy sự giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng phản biện của giảng viên. Việc hình thành môi trường học thuật tích cực, đề cao sự chia sẻ và hợp tác nghiên cứu sẽ góp phần củng cố và phát triển văn hóa đọc trong đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn, qua đó, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các học viện, trường sĩ quan quân đội.
Năm là, xây dựng chính sách, cơ chế khuyến khích và hỗ trợ thiết thực.
Trong bối cảnh đặc thù của quân đội, việc xây dựng tiêu chí đánh giá toàn diện, bao gồm: mức độ tham gia đọc, nghiên cứu, cập nhật tri thức, sáng tạo bài giảng và đóng góp các đề tài khoa học là yếu tố thiết yếu để bảo đảm tính khách quan, công bằng và minh bạch trong đánh giá năng lực. Bên cạnh đó, cơ chế hỗ trợ thiết thực về thời gian và tài chính dành cho giảng viên tham gia các hoạt động đào tạo chuyên sâu, hội thảo khoa học, các khóa tập huấn kỹ năng đọc, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ – thông tin góp phần giảm tải áp lực công việc thường nhật và nâng cao hiệu quả bồi dưỡng văn hóa đọc.
Việc tổ chức các chương trình đào tạo, huấn luyện bài bản kết hợp với sự hỗ trợ tài chính hợp lý không chỉ thúc đẩy quá trình nâng cao trình độ chuyên môn mà còn góp phần xây dựng môi trường học thuật năng động, sáng tạo và bền vững. Quan trọng hơn, việc thiết lập hệ thống hỗ trợ liên tục và bền vững trong khung chính sách sẽ bảo đảm tính khả thi lâu dài cho quá trình phát triển văn hóa đọc trong đội ngũ giảng viên. Hệ thống này cần được thiết kế đồng bộ, linh hoạt, phù hợp với đặc thù tổ chức, được rà soát và điều chỉnh thường xuyên nhằm phản ánh đúng nhu cầu thực tiễn và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong giáo dục quân sự.
4. Kết luận
Bồi dưỡng văn hóa đọc cho đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các học viện, trường sĩ quan quân đội là nhiệm vụ chiến lược mang tính quyết định, đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực nghiên cứu và hiệu quả giảng dạy, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện công tác giáo dục, đào tạo. Văn hóa đọc không chỉ là phương tiện giúp giảng viên tiếp cận kịp thời, đa dạng các tri thức tiên tiến mà còn là nguồn cảm hứng thúc đẩy phát triển tư duy phản biện và khả năng sáng tạo, từ đó, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Bên cạnh đó, công tác bồi dưỡng văn hóa đọc còn thể hiện sự đổi mới sâu rộng trong quản lý và tổ chức đào tạo, là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao vị thế và chất lượng giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chú thích
1, 2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 458, 360.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015). Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 57. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, tr. 239.
4. Tổng cục Chính trị (2020). Đề cương học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025 (dùng cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội). H. NXB Quân đội nhân dân, tr. 21.
5. Bộ Chính trị (2024). Kết luận số 91- KL/TW ngày 12/8/2024 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29 – NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Quốc phòng (2023). Quyết định số 3525/QĐ-BQP ngày 03/8/2023 phê duyệt Đề án “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội giai đoạn 2023 – 2030 và những năm tiếp theo”.
- 2. Quân ủy Trung ương (2022). Kết luận số 1172-KL/QUTW ngày 16/6/2022 về việc tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật trong Quân đội thời kỳ mới.
- Trách nhiệm của thanh niên quân đội trong phòng, chống sản phẩm văn hóa độc hại.https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/01/09/trach-nhiem-cua-thanh-nien-quan-doi-trong-phong-chong-san-pham-van-hoa-doc-hai.



