Khuyến nghị một số giải pháp xây dựng và phát triển lực lượng lao động trong các khu công nghiệp từ thực tiễn tỉnh Bình Dương

ThS, NCS. Nguyễn Thị Ngọc Xuân
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương
ThS. Nguyễn Duy Cường
Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh Bình Dương

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, các khu công nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế – xã hội của đất nước. Bình Dương là một trong những địa phương đi đầu trong việc xây dựng và phát triển các khu công nghiệp. Do đó, nghiên cứu về tình hình lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương giúp đánh giá toàn diện, khách quan, thực tiễn về cơ cấu, số lượng, chất lượng và đời sống của người lao động trong các khu công nghiệp góp phần nâng cao hiệu quả việc hoạch định chính sách, quản lý nhà nước và thực hiện tốt công tác an sinh xã hội, đề xuất các giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng lao động trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế.

Từ khóa: Lực lượng lao động; khu công nghiệp; quản lý nhà nước; an sinh xã hội; chuyển đổi số; hội nhập quốc tế; tỉnh Bình Dương.

1. Tình hình phát triển các khu công nghiệp và lao động trên địa bàn tỉnh Bình Dương

a. Tình hình phát triển khu công nghiệp

Việc phát triển khu công nghiệp Bình Dương bắt đầu từ chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khát vọng và ý chí vươn lên làm giàu của một tỉnh nông nghiệp. Ngày 01/01/1997, tỉnh Sông Bé tách địa giới hành chính ra thành Bình Dương và Bình Phước. Sau chia tách, Bình Dương thừa hưởng thành tựu và cơ sở vật chất của tỉnh Sông Bé trước đây. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, toàn tỉnh tập trung phấn đấu chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế ngành theo hướng tăng mạnh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ; phát triển đồng bộ, hài hòa giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp. 

Từ năm 1997, Bình Dương đã xác định chủ trương: “Thực hiện quy hoạch các khu công nghiệp của tỉnh (6.000 – 6.200 ha), tiếp tục đầu tư các khu công nghiệp đã cấp phép, phấn đấu sử dụng thêm 260 ha trong các khu công nghiệp, đồng thời xây dựng thêm các khu công nghiệp mới khi có yêu cầu; bảo đảm các điều kiện kết cấu hạ tầng trong và ngoài khu công nghiệp gắn liền với hình thành các khu đô thị mới, khu nhà ở công nhân để thu hút đầu tư”1. Từ đó, khu công nghiệp đầu tiên của tỉnh Bình Dương xây dựng là khu công nghiệp Sóng Thần 1, mở đầu cho sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp sau này.

Với những chủ trương đúng đắn và phù hợp với thực tế, quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp Bình Dương đã đạt được những thành tựu to lớn (xem Bảng 1)

Bảng 1. Tình hình phát triển khu công nghiệp tỉnh Bình Dương 
 (giai đoạn 2014 – 2024)

NămSố khu công nghiệpTỷ lệ lấp đầy (%)Lũy kế số doanh nghiệp hoạt động
20142352,281.028
20152448,671.112
20162461,91.155
20172556,01.367
20182577,311.367
20192580,231.446
20202787,372.022
20212787,372.432
20222791,072.546
20232892,22.576
202429933.194
Nguồn: Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương, năm 2024

Tính đến cuối năm 2024, toàn tỉnh có 29 khu công nghiệp (trong đó, 27 khu công nghiệp đi vào hoạt động); diện tích 10.963 ha; tỷ lệ cho thuê đất đạt 88,13% và 12 cụm công nghiệp với tổng diện tích 790 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 93%; có 3.199 dự án còn hiệu lực (bao gồm 2.506 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 30,43 tỷ đôla Mỹ (USD) và 689 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký 91.191 tỷ đồng)2.

b. Tình hình lao động3

Tính đến cuối năm 2023, quy mô lao động tỉnh Bình Dương là 1.845.322 người, trong đó lao động nam chiếm 51,79%, lao động nữ 48,21%; tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên qua đào tạo chiếm 23,3 %; lao động làm việc trong khu vực kinh tế nhà nước là 63.334 người, chiếm 3,43%, lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 967.137 người, chiếm 52,41%; lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 814.851 người, chiếm 44,16%. Trong giai đoạn 2015 – 2024, lực lượng lao động tỉnh Bình Dương đã trải qua những biến đổi đáng kể, tăng nhanh về quy mô số lượng và tăng nhiều tỷ lệ lao động trong khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, chuyển dịch nhanh theo sự biến chuyển cơ cấu kinh tế của tỉnh, phản ánh sự phát triển kinh tế – xã hội và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 

Cơ cấu lao động của tỉnh đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng lao động trong các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Sự chuyển dịch này phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của tỉnh, hướng tới công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Giai đoạn từ năm 2015 -2024, tỉnh Bình Dương đã trải qua sự chuyển dịch mạnh mẽ, phản ánh xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa của địa phương. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm đáng kể, từ 15% vào năm 2015 xuống dưới 8% vào năm 2024, cho thấy ,sự thu hẹp dần của khu vực nông nghiệp và quá trình chuyển đổi sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Cụ thể, lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm ưu thế lớn nhất, đạt khoảng 60% vào năm 2024. Điều này, phản ánh vai trò then chốt của Bình Dương như một trung tâm công nghiệp trọng điểm với hơn 29 khu công nghiệp và 12 cụm công nghiệp hoạt động hiệu quả, tạo ra hàng triệu cơ hội việc làm. Đồng thời, tỷ trọng lao động trong lĩnh vực dịch vụ tăng lên đáng kể, từ 20% năm 2015 lên 32% vào năm 2024, đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của các ngành thương mại, logistics và dịch vụ hỗ trợ sản xuất.

Mặc dù lực lượng lao động tăng về số lượng, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng hằng năm nhưng vẫn còn thấp so với yêu cầu của sự phát triển. Cụ thể: năm 2015, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi đã qua đào tạo của Bình Dương là 17%; năm 2020, tỷ lệ này đạt 20,2%; năm 2023, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của Bình Dương đạt 23,5%, thấp hơn so với mức trung bình của vùng Đông Nam Bộ (29,0%) và cả nước (27,2%). 

c. Tình hình lao động trong các khu công nghiệp

Tính đến tháng 12/2024, tổng số lao động trong khu công nghiệp Bình Dương đến nay là 551.380 người, trong đó 83,30% lao động (tương đương 459.287 lao động) làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có 16,70% lao động (tương đương 92.093 lao động) làm việc trong các doanh nghiệp trong nước; số lao động nữ chiếm 55,17%; có 537.651 lao động được ký kết hợp đồng lao động ( tương đương 97,51%); số lao động người nước ngoài làm việc trong các khu công nghiệp là 14.274 người4

Một trong những đặc điểm nổi bật của lao động trong khu công nghiệp là tính chất tập trung với số lượng lớn, đa dạng về cơ cấu và trình độ. Lao động tại đây phần lớn thuộc độ tuổi trẻ, từ 18 – 35, trong đó nữ giới chiếm tỷ lệ đáng kể, đặc biệt trong các ngành, như: may mặc, chế biến thực phẩm và điện tử. Mặc dù vậy, đa số lực lượng này vẫn thuộc nhóm lao động phổ thông, với trình độ học vấn trung bình và kỹ năng hạn chế. Ở các khu công nghiệp công nghệ cao, lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia có tay nghề ngày càng đóng vai trò quan trọng, đáp ứng các yêu cầu về tự động hóa và sản xuất hiện đại. Chính sự đa dạng về trình độ này đã tạo nên thách thức lớn cho cả doanh nghiệp và các chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo sự cân bằng giữa năng suất lao động và chất lượng việc làm.

Từ năm 2015, số lượng lao động tại các khu công nghiệp ở Bình Dương đã tăng trưởng nhanh chóng, chủ yếu nhờ vào làn sóng đầu tư mạnh mẽ từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực điện tử, may mặc và chế biến gỗ, nhu cầu tuyển dụng lao động không ngừng gia tăng. 

Theo thống kê, đến năm 2024, quy mô lực lượng lao động tại các khu công nghiệp của tỉnh tăng hơn gấp đôi so với năm 2015, từ 242.000 người lên 551.380 người. Đặc điểm đáng chú ý là phần lớn lực lượng lao động này đến từ các tỉnh thành khác, đặc biệt là miền Trung và miền Tây Nam bộ, tạo nên một cơ cấu lao động đa dạng về văn hóa, trình độ và kinh nghiệm. Đa phần lao động tại các khu công nghiệp ở Bình Dương vẫn thuộc nhóm lao động phổ thông, chiếm khoảng 70 – 80% tổng lực lượng lao động5. Những ngành công nghiệp thâm dụng lao động, như: dệt may, da giày và chế biến gỗ, vẫn dựa chủ yếu vào lực lượng này. 

Việc quản lý nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn gặp những thách thức, như: (1) Chất lượng lao động chưa đồng đều và phần lớn lao động vẫn thuộc nhóm như lao động phổ thông. (2) Thu nhập và chế độ phúc lợi cho người lao động vẫn còn nhiều bất cập. (3) Điều kiện làm việc và an toàn lao động chưa được bảo đảm ở mức tối ưu, cá biệt có doanh nghiệp còn vi phạm pháp luật về lao động, tình trạng tranh chấp lao động vẫn còn tiếp diễn. (4) Vấn đề nhà ở và môi trường sống của người lao động còn nhiều bất cập. (5) Tình trạng mâu thuẫn trong quan hệ lao động vẫn tồn tại trong các doanh nghiệp, gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội. (6) Tình trạng an ninh trật tự xã hội có mặt chưa tốt. (7) Sự thiếu hụt các thiết chế và hoạt động văn hóa, thể thao và vui chơi giải trí lành mạnh cho người lao động.

2. Khuyến nghị giải pháp trọng tâm xây dựng, phát triển lực lượng lao động trong các khi công nghiệp tỉnh Bình Dương

Để giải quyết các khó khăn, hạn chế tồn tại mà lực lượng lao động tại các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương đang phải đối mặt, cần một hệ thống giải pháp toàn diện, bao gồm sự phối hợp giữa chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người lao động. Những giải pháp này không chỉ giúp cải thiện điều kiện sống và làm việc của người lao động mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế tỉnh, thúc đẩy phát triển công nghiệp theo hướng bền vững.

Thứ nhất, cần có kế hoạch, lộ trình nâng cao trình độ và kỹ năng tay nghề của lực lượng lao động.

Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác với các trường đại học, cao đẳng và trung tâm đào tạo nghề để đào tạo và đào tạo lại cho người lao động, đây chính là phát huy mô hình “Ba nhà”, đó là: Nhà nước, nhà trường, nhà doanh nghiệp trong hoạch định chính sách, đào tạo và sử dụng lao động tối ưu và hiệu quả nhất. Các khóa đào tạo nên tập trung vào các kỹ năng chuyên môn, kỹ năng sử dụng công nghệ và khả năng tư duy sáng tạo, nhằm giúp lao động phổ thông chuyển đổi thành lực lượng lao động chất lượng cao, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0. Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ tài chính cho người lao động tham gia đào tạo nghề, chẳng hạn như các khoản vay không lãi suất hoặc học bổng từ các quỹ phát triển nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần đầu tư vào các chương trình đào tạo nội bộ, giúp công nhân không chỉ nâng cao tay nghề mà còn phát triển kỹ năng quản lý, tạo điều kiện để họ thăng tiến trong sự nghiệp.

Đối với các ngành công nghệ cao, chính quyền cần khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với các đối tác quốc tế để triển khai các khóa đào tạo chuyên sâu, từ đó phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu toàn cầu hóa. Cần xây dựng và đẩy mạnh các phong trào khuyến học, khuyến tài, tôn vinh và lan tỏa những tấm gương công nhân lao động vượt khó vươn lên, học tập không ngừng, các phong trào sáng tạo, cải tiến để nâng cao năng suất lao động trong các doanh nghiệp khu công nghiệp. Cần thiết, thiết kế và hỗ trợ các khóa đào tạo trực tuyến ngoài giờ làm việc, giúp cho công nhân có thể tiếp cận các chương trình học tập dễ dàng, tiết kiệm và hiệu quả hơn.

Thứ hai, tăng cường công tác quản lý nhà nước về lao động và cải thiện, nâng cao điều kiện làm việc tại các khu công nghiệp.

Nâng cao công tác hướng dẫn các doanh nghiệp trong thực thi pháp luật nói chung, pháp luật về lao động nói riêng. Kiểm tra, giám sát định kỳ việc tuân thủ các quy định pháp luật về tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động tại các doanh nghiệp, bảo đảm các tiêu chuẩn về môi trường làm việc, bảo hộ lao động và thời gian làm việc, hoạt động của tổ chức công đoàn…. Những doanh nghiệp vi phạm cần được xử phạt nghiêm theo quy định để răn đe và tạo động lực cho việc cải thiện điều kiện, môi trường lao động. Bên cạnh đó, cần khuyến khích các doanh nghiệp chủ động đầu tư khoa học – công nghệ và thiết bị hiện đại nhằm bảo vệ môi trường, giảm thiểu các yếu tố gây hại cho sức khỏe người lao động. Việc xây dựng văn hóa an toàn lao động thông qua các chương trình đào tạo định kỳ và chiến dịch nâng cao nhận thức sẽ giúp công nhân hiểu rõ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ sức khỏe và an toàn cá nhân.

Thứ ba, tăng thu nhập và cải thiện chính sách phúc lợi xã hội cho người lao động

Đây chính là giải pháp cơ bản nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động, giúp người lao động yên tâm và gắn bó lâu dài. Các doanh nghiệp cần áp dụng hệ thống lương thưởng dựa trên năng suất lao động và hiệu quả làm việc, tạo động lực để người lao động nâng cao hiệu suất và gắn bó lâu dài với doanh nghiệp. Chính quyền tỉnh nghiên cứu và ban hành các chính sách hỗ trợ về nhà ở, y tế, giáo dục cho người lao động và con em người lao động. Cần mở rộng các chương trình nhà ở xã hội để người lao động có thể tiếp cận các khu nhà ở với giá cả hợp lý và điều kiện sống bảo đảm. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia đầu tư vào các khu nhà ở công nhân, đồng thời hỗ trợ xây dựng các tiện ích công cộng, như: trường học, nhà trẻ, bệnh viện và khu vui chơi giải trí trong hoặc gần khu công nghiệp. Những tiện ích này không chỉ giúp giảm bớt gánh nặng cho công nhân mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp họ ổn định hơn về tâm lý và công việc. Quản lý tốt các nguồn quỹ chăm lo cho công nhân, người lao động của Công đoàn, Đoàn Thanh niên để chăm lo tốt nhất cho người lao động trong các doanh nghiệp và trên địa bàn họ sinh sống, kịp thời hỗ trợ các trường hợp tai nạn lao động, bệnh hiểm nghèo, ốm đau, tử tuất…

Thứ tư, tăng cường sự gắn kết xã hội và cải thiện môi trường sống của người lao động.

Với đặc thù là nơi tập trung lao động nhập cư từ nhiều vùng miền, Bình Dương cần thúc đẩy các chương trình giao lưu văn hóa, thể thao và các hoạt động cộng đồng nhằm tăng cường sự đoàn kết giữa các nhóm lao động. Chính quyền, đoàn thể các cấp và doanh nghiệp cần chủ động phối hợp tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, như: hội thao công nhân, ngày hội văn hóahoặc các chương trình thiện nguyện… để xây dựng môi trường sống văn hóa, thân thiện, lành mạnh cho người lao động. Định kỳ tổ chức các giải thi đấu có liên quan, giúp người lao động gắn bó với doanh nghiệp và địa phương nơi sinh sống. Tổ chức khảo sát, thành lập, hoạt động có hiệu quả tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên trong các khu công nghiệp. Việc tăng cường sự hiện diện của các tổ chức này  giúp cho công nhân nâng cao nhận thức chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, bảo vệ quyền chính đáng, hợp pháp của người lao động, phối hợp chủ động giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp lao động và ngăn chặn tình trạng đình công, lãn công không đúng theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, phối hợp giải quyết tốt các vấn đề an ninh, an toàn xã hội trong các khu công nghiệp.

Chính quyền địa phương cần đẩy mạnh công tác quản lý dân cư, quản lý các khu nhà trọ, khu nhà ở xã hội, khu chung cư, bảo đảm tốt an ninh trật tự và giảm thiểu sự gia tăng của các tệ nạn, như: trộm cắp, cờ bạc, ma túy… trong khu công nghiệp và trên địa bàn dân cư. Phát huy vai trò, trách nhiệm của đồn công an trong các khu công nghiệp, cảnh sát khu vực, đội công nhân xung kích tự quản trong doanh nghiệp; xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt là công nhân lao động trong cung cấp các tin báo, tố giác tội phạm qua đường dây nóng. Các tổ chức chính trị – xã hội tổ chức các buổi tuyên truyền về pháp luật, kỹ năng sống và các giá trị đạo đức, văn hóa, giúp nâng cao nhận thức của người lao động; các cơ quan báo chí tăng cường tuyên truyền pháp luật và các thủ đoạn của các loại tội phạm cho công nhân biết để  phòng tránh và tự bảo vệ mình. Xây dựng và nhân rộng các mô hình nhà trọ và doanh nghiệp tự quản, bảo đảm tốt an ninh trật tự, xây dựng môi trường sống lành mạnh cho người lao động. 

3. Kết luận

Với lợi thế về vị trí địa lý, tính năng động sáng tạo, Bình Dương ngày càng thu hút nhiều lao động đến sinh sống và làm việc lâu dài. Xây dựng và phát triển lực lượng lao động trong các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ việc nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước đến nâng cao thu nhập, đời sống của người lao động. Điều này, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, toàn diện lấy con người làm trung tâm, làm chủ thể, động lực và mục đích của sự phát triển bền vững để lực lượng lao động tỉnh Bình Dương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng, đồng thời góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Chú thích:

1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1997). Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VI (từ ngày 17 – 19/12/1997).

2. Tác giả tổng hợp số liệu do Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương cung cấp, năm 2024.

3, 4, 5. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương (2025). Báo cáo số 84/BC-ĐĐBQH ngày 19/3/2025 về kết quả giám sát chuyên đề: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội” trên địa bàn tỉnh.

Tài liệu tham khảo:

1. Chính phủ (2022). Nghị định số 35/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 quy định về quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế.

2. Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Dương (2024) Báo cáo số 361/BC-ĐĐBQH ngày 19/9/2024 về kết quả giám sát chuyên đề: “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2015 – 2024”.

3. Quốc hội (2019). Bộ luật Lao động năm 2019.

4. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định số 790/QĐ-TTg ngày 03/8/2024 về phê duyệt quy hoạch tỉnh Bình Dương thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.