Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Nguyễn Chi Mai
Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Ninh

(Quanlynhanuoc.vn) – Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, đặc biệt trong các lĩnh vực như công nghiệp, du lịch, nông nghiệp và thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh cũng gặp phải một số thách thức và khó khăn trong việc phát triển. Trên cơ sở phân tích các chính sách quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh, tác giả đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, giúp cải thiện điều kiện kinh doanh, thúc đẩy sự sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng hội nhập quốc tế của loại hình doanh nghiệp này.

Từ khóa: Quản lý nhà nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa, tỉnh Quảng Ninh.

1. Đặt vấn đề

Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực kinh tế tư nhân ở địa phương tác động trực tiếp đến sự phát triển của khu vực này. Do vậy, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một ưu tiên trong nhiều chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam và các quốc gia khác. Các chính sách này tập trung vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ tài chính và tín dụng, phát triển nguồn nhân lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển nhanh chóng, bền vững và đóng góp quan trọng vào nền kinh tế. 

Trong những năm qua, công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực kinh tế tư nhân đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, trước yêu cầu phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân trở thành động lực phát triển kinh tế theo định hướng của Đảng hiện nay rất cần đổi mới hơn nữa công tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực kinh tế tư nhân ở cấp địa phương. Trong phạm vi bài viết tác giả trình bày nội dung quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực kinh tế tư nhân; thực trạng triển khai các chính sách quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh và đề xuất một số giải pháp.

2. Cơ sở lý luận và thực tiễn

Quản lý nhà nước được hiểu là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh của các chủ thể mang quyền lực nhà nước, nói gọn là các cơ quan quản lý nhà nước, được thực hiện bằng bộ máy công cụ đồng bộ trong gắn kết phối hợp của Nhà nước. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp là sự tác động có tổ chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tới các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện và định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi và hiệu quả, góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu chung của nền kinh tế.

Các nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm:

(1) Nhà nước ban hành khung khổ pháp luật chung tạo môi trường pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động với 4 loại, như sau: pháp luật điều chỉnh quá trình thành lập, hoạt động, phá sản doanh nghiệp; các luật chung quy định về quyền kinh doanh và môi trường kinh doanh nói chung; pháp luật riêng điều chỉnh quá trình thành lập, hoạt động của các doanh nghiệp trong các ngành và lĩnh vực đặc thù như kinh doanh ngân hàng, tài chính, dầu khí, khai thác tài nguyên, xuất khẩu lao động; pháp luật điều chỉnh quan hệ tài chính với Nhà nước bao gồm pháp luật về thuế, phí, lệ phí và các nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp đối với Nhà nước.

(2) Nhà nước tùy theo mục tiêu và định hướng chiến lược của mình ban hành các chính sách liên quan đến doanh nghiệp. Hệ thống các chính sách này bao gồm các chính sách ưu đãi, các chính sách hạn chế và chính sách hỗ trợ theo tiêu chí ngành, lĩnh vực mà Nhà nước thấy cần thiết phải áp dụng. Các chính sách này phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp khu vực tư nhân.

(3) Tổ chức bộ máy quản lý hành chính cần chú trọng trên cả 3 mặt: xây dựng và kiện toàn cơ cấu tổ chức; xác lập và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong các nội dung này, quan trọng nhất là thực hiện các thủ tục hành chính như thủ tục đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp, giải quyết thủ tục đầu tư và xây dựng, cấp chứng chỉ quản lý nhà nước về quyền sở hữu, bản quyền, sở hữu trí tuệ, tranh chấp, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản,… Ngoài ra, yêu cầu cơ quan nhà nước phải chuyển sang cơ chế một cửa, rút ngắn thời gian làm thủ tục hành chính.

(4) Kiểm tra, kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp phải được tiến hành thường xuyên nhưng không được chồng chéo, gây cản trở hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích của kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp là kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật, tuân thủ hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn, kiểm tra các vụ việc đột xuất. Việc kiểm tra, kiểm soát thường được tiến hành theo các chuyên ngành chức năng của quản lý nhà nước như tài chính, lao động, tiền lương, an toàn, an ninh trật tự,… Các cuộc kiểm tra phải được kết luận với những đánh giá rõ ràng, minh bạch, bảo đảm mục tiêu của kiểm tra và công bằng, công khai đối với doanh nghiệp.

Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến thời điểm 31/12/2024, cả nước có khoảng 940.078 doanh nghiệp đang hoạt động (tăng 2% so với cùng kỳ năm 2023). Gần 98% trong số này có quy mô nhỏ và vừa. Tính riêng năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường là 233.419 doanh nghiệp. Trong đó, đa phần có quy mô nhỏ (từ 0 – 10 tỷ đồng) với 125.818 doanh nghiệp (chiếm 92,5%, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2023), chủ yếu thuộc nhóm ngành dịch vụ với 103.127 doanh nghiệp, chiếm 75,8% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, tăng 2,73% so với cùng kỳ năm 2023. Nhóm ngành công nghiệp và xây dựng có 31.585 doanh nghiệp gia nhập thị trường, chiếm 23,2% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, giảm 0,53% so với cùng kỳ năm 2023. Khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản ghi nhận 1.373 doanh nghiệp thành lập mới, chiếm 1% tổng số doanh nghiệp thành lập mới, giảm 5,24% so với cùng kỳ năm 2023.

Quy mô lao động bình quân của doanh nghiệp nhỏ và vừa có xu hướng cải thiện sau dịch Covid-19. Quy mô vốn bình quân của các doanh nghiệp có sự tăng trưởng nhanh, tuy nhiên vẫn chủ yếu là nhỏ và vừa (chiếm 97,2%). Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút 5,5 triệu lao động so với 9,8 triệu lao động của doanh nghiệp lớn.

Mặc dù chiếm tỷ trọng gần 98% tổng số doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ có tổng nguồn vốn 16,6 triệu tỷ đồng, chiếm chưa đến 30% tổng nguồn vốn hoạt động sản xuất – kinh doanh của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Dư nợ tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2024 chỉ đạt gần 17,6%. Theo Báo cáo tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ghi nhận, khu vực doanh nghiệp này có vai trò quan trọng trong tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện thu nhập cho người lao động, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tăng trưởng kinh tế. Đây là lực lượng chủ yếu khai thác các thị trường ngách, huy động tối đa nguồn lực trong dân phục vụ phát triển kinh tế – xã hội.

Ngay cả trong những thời kỳ khó khăn, doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn nỗ lực duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, thể hiện trách nhiệm xã hội với cộng đồng. Với quy mô nhỏ và cơ chế quản lý linh hoạt, doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng thích ứng với những thay đổi thị trường để thử nghiệm các ý tưởng mới và không ngừng đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia thông qua cung cấp nguyên liệu, dịch vụ hậu cần hoặc gia công sản phẩm. Khu vực này thường tập trung vào các ngành, lĩnh vực nhằm khai thác lợi thế địa phương như: nông sản, du lịch, làng nghề truyền thống… điều này giúp phân bổ nguồn lực đồng đều, tạo động lực phát triển cho khu vực nông thôn và miền núi, giảm chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng. doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cũng tham gia xuất khẩu hàng hóa (dệt may, thủy sản, nông sản, đồ gỗ…) sang thị trường khu vực và quốc tế, góp phần quảng bá thương hiệu quốc gia.

3. Thực trạng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh

Quảng Ninh là một tỉnh phát triển mạnh về công nghiệp, đặc biệt là khai thác và chế biến than, điện, dầu khí, và du lịch. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào chế biến khoáng sản, chế biến thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng. Với tiềm năng du lịch lớn, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, khách sạn, nhà hàng và các dịch vụ hỗ trợ du lịch. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng tham gia vào sản xuất nông sản sạch, thủy sản và các sản phẩm chế biến từ nông sản, thủy sản. Các cửa hàng bán lẻ, dịch vụ logistics và các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực tiêu dùng đang phát triển mạnh mẽ tại các thành phố và khu vực du lịch.

Theo báo cáo của Sở Tài chính, toàn tỉnh Quảng Ninh có 12.021 doanh nghiệp và đơn vị phụ thuộc đang hoạt động. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân chiếm 97,84% đã phản ánh vai trò then chốt của khu vực này trong phát triển kinh tế địa phương. Năm 2024, tỉnh Quảng Ninh có 2.085 doanh nghiệp thành lập mới. Dù tổng vốn đăng ký chỉ đạt 21.073 tỷ đồng nhưng số lượng doanh nghiệp quay trở lại hoạt động vẫn đạt 782 đơn vị, cũng cho thấy sức phục hồi đang từng bước trở lại sau nhiều khó khăn khách quan và chủ quan. Đáng chú ý, trong quý I/2025, toàn tỉnh có thêm gần 400 doanh nghiệp mới với tổng vốn đăng ký 3.200 tỷ đồng, tăng gần 11% về số lượng so với cùng kỳ năm 2024; mức vốn bình quân của mỗi doanh nghiệp đạt hơn 9 tỷ đồng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp hoạt động trở lại tiếp tục tăng với gần 300 đơn vị, trong khi số doanh nghiệp giải thể không thay đổi so với cùng kỳ năm trước.

(1) Triển khai các chính sách quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh.

Với mục tiêu phát triển 10.000 doanh nghiệp trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh xác định việc đồng hành, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn sẽ là yếu tố quan trọng nhất. Trong năm 2024, Ủy ban nhân dân tỉnh đã tổ chức một hội nghị cấp tỉnh với sự tham gia của hơn 500 doanh nghiệp và nhà đầu tư nhằm lắng nghe và giải quyết các kiến nghị tồn đọng từ năm 2023. Đồng thời, các sở, ban, ngành đã tổ chức 32 hội nghị và buổi làm việc chuyên đề. Trong đó, Sở Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì 3 hội nghị, bao gồm: một hội nghị với chủ đề “Đối thoại chính sách, tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp” và hai cuộc làm việc trực tiếp để giải quyết kiến nghị của doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức 3 hội nghị nhằm tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn; Hải quan chủ trì 9 hội nghị tập trung vào vấn đề xuất nhập khẩu; Ban Quản lý Khu kinh tế cũng tổ chức 9 hội nghị nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong các lĩnh vực liên quan.

Những kết quả tích cực từ công tác hỗ trợ pháp lý đã giúp nâng cao nhận thức và trình độ pháp luật của các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong quá trình triển khai dự án và kế hoạch kinh doanh. Điều này không chỉ giảm thiểu rủi ro và tranh chấp mà còn khuyến khích, tạo động lực cho các tổ chức và cá nhân thành lập doanh nghiệp mới.

(2) Xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ hoạt động của doanh nghiệp.

Thực hiện Nghị định số 52/2015/NĐ-CP ngày 28/5/2015 của Chính phủ về cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật, tỉnh Quảng Ninh đã không ngừng rà soát, cập nhật đầy đủ và kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành vào Cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật tỉnh tại địa chỉ: http://vbpl.vn/quangninh/Pages/Home.aspx. Đồng thời, tỉnh cũng chú trọng đăng tải thường xuyên các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và địa phương trên Cổng thông tin điện tử tỉnh, các cổng thông tin điện tử thành phần, website và fanpage của các sở, ngành, địa phương, đặc biệt là fanpage DDCI. Những nỗ lực này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong việc tra cứu, khai thác và sử dụng thông tin pháp lý; đồng thời tiếp nhận và giải đáp kịp thời các phản ánh, kiến nghị từ doanh nghiệp.

Việc công khai các bản án, quyết định của Tòa án; phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; và các quyết định xử lý vi phạm hành chính liên quan đến doanh nghiệp trên Cổng thông tin điện tử tỉnh cũng được triển khai hiệu quả. Riêng trong năm 2021, Cổng thông tin điện tử tỉnh đã cập nhật và đăng tải 62 thông báo từ Tòa án, cùng hơn 20 quyết định xử lý vi phạm hành chính của các sở, ngành.

Ngoài ra, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh cũng đã công khai 156 bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật trên Trang thông tin điện tử ngành Tòa án tại https://congbobanan.toaan.gov.vn/. Những nỗ lực này không chỉ góp phần minh bạch hóa hệ thống pháp luật mà còn bảo đảm quyền tiếp cận pháp luật và thông tin cho các doanh nghiệp, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật, tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh, cũng như giảm thiểu rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh.

(3) Tư vấn, giải đáp vướng mắc pháp lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Hưởng ứng chủ trương của tỉnh về xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và minh bạch, các sở, ngành và địa phương đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc pháp lý. Các hoạt động nổi bật bao gồm tổ chức các chương trình gặp mặt, đối thoại trực tiếp và các sự kiện nhân dịp Ngày Doanh nhân Việt Nam 13/10. Ngoài ra, các hình thức tư vấn và giải đáp pháp lý được thực hiện phong phú và đa dạng, như: tiếp nhận ý kiến và phản hồi bằng văn bản, thư điện tử; duy trì các chuyên mục như “Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của tổ chức, cá nhân”, “Hỗ trợ doanh nghiệp”, “Tin xúc tiến và hỗ trợ đầu tư”, và “Doanh nghiệp hỏi – cơ quan chức năng trả lời” trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh và các đơn vị liên quan. Một số mô hình sáng tạo như “Cafe với doanh nghiệp”, các câu lạc bộ pháp luật, cùng với việc công khai đường dây nóng hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, cũng đã được triển khai hiệu quả.

Từ cấp tỉnh đến địa phương, các cơ quan chức năng luôn chủ động đồng hành cùng doanh nghiệp, lắng nghe và tháo gỡ những vướng mắc pháp lý. Đối với các vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, các sở, ngành và địa phương tăng cường phối hợp, tổ chức giải đáp qua các buổi làm việc trực tiếp, bằng văn bản hoặc thông qua các hình thức khác.

Sở Tư pháp tiếp tục phối hợp với Đoàn Luật sư tỉnh để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, áp dụng các thủ tục khởi kiện; tư vấn và trợ giúp pháp lý khi cần thiết. Danh sách các tổ chức hành nghề luật sư và luật sư trên địa bàn tỉnh cũng được cập nhật và công khai trên Cổng thông tin điện tử của Sở Tư pháp, giúp doanh nghiệp dễ dàng lựa chọn dịch vụ pháp lý phù hợp.

(4) Bồi dưỡng kiến thức, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.

Một số sở, ngành đã chủ động phổ biến các quy định và cam kết quan trọng trong các Hiệp định quốc tế như ASEAN, ASEAN+, RCEP, EVFTA, cùng với các hướng dẫn thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại phát triển ngoại thương thuộc Chương trình quốc gia về xúc tiến thương mại. Đồng thời, các chính sách hỗ trợ theo Nghị quyết số 68/NQ-CP về hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, cũng như Nghị quyết số 105/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch bệnh, cũng được phổ biến rộng rãi.

Hằng năm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận, khai thác và sử dụng thông tin liên quan đến các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước và địa phương, Sở Tư pháp đã chủ động biên soạn và đăng tải tài liệu liên quan trên các kênh thông tin như Cổng thông tin thành phần của Sở và Trang thông tin điện tử phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh. Các tài liệu này bao gồm chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, cũng như các văn bản hành chính, chỉ đạo, điều hành liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên sâu dành cho doanh nghiệp trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý, đồng thời nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Những hoạt động này đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao nhận thức pháp luật và hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp trong bối cảnh nhiều thách thức hiện nay.

Nhìn chung, công tác hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh được các sở, ban, ngành, Hiệp Hội doanh nghiệp tỉnh thực hiện cơ bản đầy đủ theo quy định tại Nghị định số 55/2019/NĐ-CP và chức năng, nhiệm vụ được phân công. Các doanh nghiệp đã được tiếp cận các thông tin pháp luật nhanh chóng; các chế độ, chính sách, pháp luật được giới thiệu, tập huấn kịp thời đến doanh nghiệp, góp phần nâng cao trình độ pháp luật cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong triển khai dự án, kế hoạch; giải quyết kịp thời các thủ tục hành chính, khó khăn, vướng mắc, góp phần hỗ trợ pháp lý, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cho doanh nghiệp, hạn chế rủi ro trong tranh chấp kinh doanh của doanh nghiệp.

Dù có tiềm năng lớn, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Quảng Ninh vẫn gặp phải một số vấn đề trong quá trình phát triển:

Một là, khó khăn trong tiếp cận vốn. doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng, nhất là nguồn vốn ưu đãi. Điều này do yêu cầu khắt khe về tài sản thế chấp, khả năng trả nợ và kế hoạch kinh doanh chưa rõ ràng.

Hai là, thiếu hụt nhân lực chất lượng cao. Mặc dù Quảng Ninh đang phát triển mạnh về du lịch và công nghiệp, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các ngành này vẫn gặp khó khăn trong việc thu hút và duy trì nhân lực chất lượng cao. Việc đào tạo nghề và kỹ năng chuyên môn cho lực lượng lao động là một thách thức lớn.

Ba là, chưa tận dụng hết tiềm năng thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Quảng Ninh chưa mạnh trong việc vươn ra các thị trường quốc tế, đặc biệt là trong việc xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ nông sản và thủy sản.

Bốn là, chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù có các chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng một số doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các chương trình hỗ trợ này. Các thủ tục hành chính đôi khi còn phức tạp và mất nhiều thời gian.

4. Một số giải pháp

Thứ nhất, cải cách thủ tục hành chính.

Đơn giản hóa thủ tục, cải cách, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà và kéo dài. Các quy trình đăng ký kinh doanh, cấp phép, kiểm tra, và giám sát cần phải được chuẩn hóa và đơn giản hóa để doanh nghiệp nhỏ và vừa không phải mất quá nhiều thời gian và chi phí tuân thủ. Sử dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành, triển khai hệ thống dịch vụ công trực tuyến để doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể thực hiện các thủ tục hành chính nhanh chóng và dễ dàng. Đặc biệt, xây dựng cổng thông tin điện tử một cửa cho doanh nghiệp.

Thứ hai, tăng cường hỗ trợ tài chính.

Cải thiện các chương trình hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là việc tạo ra các cơ chế bảo lãnh tín dụng hiệu quả hơn, giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn với lãi suất hợp lý. Khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghệ, đổi mới sáng tạo. Cung cấp các ưu đãi về thuế và thủ tục để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính.

Thứ ba, chính sách thuế và bảo hiểm xã hội hợp lý.

Cần có các chính sách thuế ưu đãi và miễn giảm thuế cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu khi mới thành lập hoặc gặp khó khăn về tài chính. Giảm thuế sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ có thể tái đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cải cách thủ tục đóng bảo hiểm xã hội cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, giảm bớt sự phức tạp và tạo ra các gói hỗ trợ bảo hiểm phù hợp với khả năng tài chính của doanh nghiệp nhỏ.

Thứ tư, tăng cường đào tạo và tư vấn cho doanh nghiệp.

Nhà nước cần tổ chức các khóa đào tạo về quản trị, tài chính, marketing và quản lý nhân sự dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các khóa học này không chỉ tập trung vào lý thuyết mà cần thực hành và áp dụng vào thực tế để giúp doanh nghiệp phát triển bền vững. Tạo ra các chương trình tư vấn miễn phí hoặc với mức phí hợp lý về chiến lược kinh doanh, tài chính, marketing, và pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đặc biệt, cần có sự tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực này để mang lại giá trị thiết thực cho doanh nghiệp.

Thứ năm, hỗ trợ tiếp cận thị trường và phát triển chuỗi cung ứng.

Tạo ra các mạng lưới kết nối doanh nghiệp nhỏ và vừa với các đối tác trong nước và quốc tế để thúc đẩy hợp tác kinh doanh, chia sẻ nguồn lực và nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các hội chợ triển lãm, diễn đàn quốc tế. Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và quốc gia bằng cách hỗ trợ đào tạo về các tiêu chuẩn chất lượng, logistics và quản lý chuỗi cung ứng. Cung cấp các dịch vụ tư vấn về nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế.

Thứ sáu, khuyến khích đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Cần có các chính sách hỗ trợ nghiên cứu và phát triển (R&D) cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ, sản xuất sạch, năng lượng tái tạo. Các doanh nghiệp cần được khuyến khích đổi mới sáng tạo để tăng khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững. Khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số trong tất cả các lĩnh vực như quản lý, sản xuất, bán hàng và marketing. Chính phủ có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các gói hỗ trợ về phần mềm, hệ thống ERP, đào tạo nhân lực về công nghệ.

Thứ bảy, cải cách quản lý và giám sát hiệu quả hơn.

Nhà nước cần xây dựng và triển khai hệ thống giám sát hiệu quả để đánh giá mức độ thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này giúp cải thiện quá trình điều chỉnh và thay đổi chính sách kịp thời nếu có vấn đề phát sinh. Tăng cường phân cấp quản lý và giảm thiểu các thủ tục hành chính không cần thiết ở các cấp trung gian, bảo đảm sự linh hoạt và dễ dàng trong việc thực hiện các chính sách cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thứ tám, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.

Nhà nước cần tạo ra một môi trường kinh doanh minh bạch, không có sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp lớn và nhỏ, giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa có cơ hội cạnh tranh công bằng và phát triển. Cung cấp các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong việc áp dụng các tiêu chuẩn bền vững, bảo vệ môi trường, và trách nhiệm xã hội, tạo ra nền tảng cho sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2017). Luật Doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017.
2. Bùi Kim Hiếu (2022). Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa khu vực kinh tế tư nhân cấp tỉnh trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Kinh tế phát triển, (14), 29-38. https://jsde.nctu.edu.vn/jsde/article/view/182.
3. Hồ Thanh Thủy (2018). Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam: đặc điểm, vai trò và gợi mở cho sự phát triển. Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị, Số 10 (47) – 2018.
4. Minh Thư (2025). Doanh nghiệp Quảng Ninh – lực lượng nòng cốt phát triển kinh tế địa phương. https://tapchitaichinh.vn/doanh-nghiep-quang-ninh-luc-luong-nong-cot-phat-trien-kinh-te-dia-phuong.html.
5. Vũ Hùng Cường (2021). Kinh tế tư nhân và vai trò động lực tăng trưởng. H. NXB Khoa học xã hội.