Thượng úy Huỳnh Thanh Phong
Hệ 5, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, công nghiệp chế biến nông sản đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh của quốc gia. Ở Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất nông sản trọng điểm, góp phần đáng kể vào bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu. Tuy nhiên, thực tiễn phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở khu vực này còn bộc lộ nhiều hạn chế về quy mô sản xuất, trình độ công nghệ, chất lượng sản phẩm và năng lực hội nhập. Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế mà còn tác động tới an sinh xã hội, bền vững môi trường và khả năng thích ứng với các yêu cầu mới về tiêu chuẩn kỹ thuật và thị trường quốc tế, đặt ra yêu cầu bức thiết phải phát triển công nghiệp chế biến nông sản.
Từ khóa: Công nghiệp chế biến nông sản; đồng bằng sông Cửu Long; hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Đặt vấn đề
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nông nghiệp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế bền vững. Đặc biệt, ở các vùng trọng điểm sản xuất như đồng bằng sông Cửu Long, nơi được xem là “vựa lúa, vựa cá, vựa trái cây” của cả nước, nông nghiệp không chỉ là nguồn sống của hàng triệu người dân mà còn là yếu tố chiến lược trong bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh lương thực và phục vụ hậu cần quân đội trong mọi tình huống.
Tuy nhiên, thực trạng phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở khu vực này vẫn còn nhiều hạn chế: sản phẩm chủ yếu xuất thô, giá trị gia tăng thấp, thiếu liên kết vùng, công nghệ lạc hậu và phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, đặc biệt khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như: CPTPP, EVFTA, RCEP… các yêu cầu về chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn kỹ thuật ngày càng khắt khe. Điều này, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải phát triển mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản ở đồng bằng sông Cửu Long, không chỉ để nâng cao giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh mà còn góp phần bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh lương thực quốc gia, đáp ứng nhu cầu hậu cần cho lực lượng vũ trang trong tình huống khẩn cấp.
2. Thực trạng công nghiệp chế biến nông sản ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
a. Những kết quả đạt được
Một là, quy mô ngành công nghiệp chế biến nông sản ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã có sự mở rộng đáng kể cả về số lượng và quy mô cơ sở chế biến, tạo nền tảng quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng nông sản.
(1) Số lượng cơ sở chế biến nông sản ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có sự tăng trưởng đáng kể, tập trung nhiều ở các tỉnh, như: Long An, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng. Cụ thể, Tiền Giang có trên 500 doanh nghiệp chế biến lúa gạo, 14 nhà máy chế biến trái cây với tổng công suất khoảng 700.000 tấn/năm và 19 doanh nghiệp chế biến thủy sản công suất gần 160.000 tấn/năm1. Sóc Trăng hiện có 12 doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu, 5 doanh nghiệp chế biến rau quả xuất khẩu và 3 nhà máy chế biến lúa gạo đạt chuẩn xuất khẩu2.
(2) Quy mô của các cơ sở chế biến nông sản cũng không ngừng được mở rộng, bước đầu đáp ứng yêu cầu chế biến các loại nông sản ở các địa phương. Nhiều doanh nghiệp tiên phong tại đây đã mạnh dạn đầu tư công nghệ hiện đại, xây dựng dây chuyền chế biến quy mô lớn, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Điển hình, như: Vinafood II tại Cần Thơ, mỗi năm thu mua, chế biến và xuất khẩu khoảng 2,8- 3,0 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD3. Sao Mai Group (An Giang) với hệ thống 2 nhà máy chế biến cá tra công suất 900 tấn/ngày, 4 kho lạnh tổng sức chứa 40.000 tấn, nhà máy chế biến bột cá 450 tấn/ngày và nhà máy tinh luyện dầu cá 200 tấn/ngày4, đóng vai trò đầu tàu trong xuất khẩu thủy sản.
Những kết quả trên khẳng định quy mô ngành công nghiệp chế biến nông sản đã và đang được mở rộng đáng kể, tạo động lực quan trọng để nâng cao giá trị gia tăng nông sản, đẩy mạnh xuất khẩu và góp phần phát triển kinh tế – xã hội bền vững của vùng.
Hai là, sản lượng và giá trị nông sản qua chế biến đã có bước tăng trưởng rõ rệt, góp phần nâng cao tỷ trọng xuất khẩu nông sản chế biến.
(1) Sản lượng chế biến nông sản có bước tăng trưởng rõ rệt. Những năm gần đây, sản lượng chế biến nông sản tại các tỉnh trong vùng đã ghi nhận sự gia tăng liên tục cả về quy mô lẫn giá trị sản xuất. Tại Cần thơ, sản lượng xay xát gạo năm 2023 đạt 10.953.259 tấn, tăng 214.770 tấn so với năm 2022; chế biến rau quả các loại đạt 30.318 tấn, tăng 2.678 tấn so với năm 20225. Tại Hậu Giang, sản lượng chế biến cá (phile cá và các loại thịt cá khác) đạt 2253 tấn tấn/năm, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước6.
(2) Giá trị nông sản qua chế biến cũng cải thiện rõ rệt. Tại Sóc Trăng, giá trị sản xuất công nghiệp từ chế biến nông sản năm 2023 đạt 6.290 tỷ đồng, tăng 203 tỷ đồng so với năm trước7 cho thấy, sự phát triển ổn định và bền vững của ngành Chế biến nông sản địa phương. Tương tự, tại tỉnh Hậu Giang, giá trị sản xuất công nghiệp ngành Chế biến, chế tạo năm 2023 đạt trên 9.041 tỷ đồng8, trong đó ngành Chế biến thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn, khẳng định vai trò chủ lực của lĩnh vực này trong cơ cấu kinh tế công nghiệp của tỉnh. Những con số này phản ánh rõ sự gia tăng giá trị nông sản sau chế biến, từng bước nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh tranh của nông sản đồng bằng sông Cửu Long trên thị trường quốc tế.
Ba là, bước đầu đã hình thành một số mô hình chuỗi liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản theo hướng bền vững góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và bảo đảm đầu ra ổn định cho người dân. Tại Đồng Tháp, toàn tỉnh có 378 ao nuôi cá tra thương phẩm (1.630 ha), trong đó diện tích hộ nuôi liên kết với doanh nghiệp sản xuất thức ăn và chế biến là 804,7 ha. Nhờ liên kết chuỗi, giá trị sản xuất ngành Cá tra Đồng Tháp năm 2024 ước đạt 8.802 tỷ đồng9. Hay ở An Giang, có 8 xã ở 5 huyện (TX. Tịnh Biên, huyện Thoại Sơn, huyện Châu Phú, huyện Tri Tôn, TP. Châu Đốc) tham gia mô hình nuôi gia công cho Công ty CP Chăn nuôi CP Việt Nam. Theo đó, có khoảng 10.100 con heo thịt (3 trại), 355.000 con gà thịt (6 trại) và 90.000 con vịt thịt (2 trại) được cung ứng nguyên liệu cho Công ty10.
Bốn là, nhiều sản phẩm chế biến nông sản của vùng đã đạt được chứng nhận chất lượng quốc tế, góp phần nâng cao uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Các tiêu chuẩn, như: ISO 9001, ISO 22000, HACCP, GlobalGAP, BRC… được áp dụng tại nhiều cơ sở chế biến giúp sản phẩm đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu sang các thị trường khó tính, như: EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản.
Năm là, công nghiệp chế biến nông sản đã có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế vùng và giải quyết việc làm cho lao động địa phương.
(1) Công nghiệp chế biến nông sản đã đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế. Tại Hậu Giang, ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2023 đạt mức tăng trưởng 7,49%11, đóng góp 8,22 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng GRDP toàn tỉnh12, trong đó ngành Chế biến thực phẩm đóng vai trò nòng cốt. Giá trị sản xuất ngành Chế biến, chế tạo đạt hơn 9041 tỷ đồng, tăng hơn 737 tỷ đồng so với năm 202213.
(2) Bên cạnh việc đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, công nghiệp chế biến nông sản còn góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương. Công nghiệp chế biến nông sản đã giải quyết việc làm 40.002 lao động14 của tỉnh Hậu Giang, 77.406 lao động15 tỉnh Sóc Trăng… góp phần nâng cao thu nhập, ổn định đời sống người dân và giảm áp lực di cư lao động. Những con số này khẳng định vai trò then chốt của công nghiệp chế biến nông sản không chỉ trong phát triển kinh tế mà còn trong phát triển xã hội, thúc đẩy tăng trưởng toàn diện và bền vững tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
b. Những tồn tại, hạn chế
Một là, quy mô và trình độ công nghệ chế biến nông sản của các doanh nghiệp trong vùng còn thấp, lạc hậu so với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Theo Niên giám Thống kê Cần Thơ năm 2023, toàn thành phố có 310 doanh nghiệp chế biến thực phẩm, trong tổng số 1.199 doanh nghiệp chế biến, chế tạo, phần lớn là doanh nghiệp nhỏ với quy mô dưới 50 lao động, chiếm hơn 65%16. Nhiều dây chuyền sản xuất chủ yếu phục vụ sơ chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chế biến sâu và đa dạng hóa sản phẩm. Việc ứng dụng công nghệ mới trong bảo quản, đóng gói, chế biến thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế, làm giảm khả năng cạnh tranh và giá trị gia tăng của nông sản xuất khẩu.
Hai là, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp chế biến nông sản còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu chuyên môn hóa và hội nhập. Hiện nay, lực lượng lao động trong ngành Chế biến nông sản của đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo chuyên sâu. Tại Cần Thơ, theo Niên giám Thống kê năm 2023, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc đã qua đào tạo chỉ đạt 23,30%, trong đó tỷ lệ ở khu vực thành thị là 27,50%, còn ở khu vực nông thôn chỉ đạt 13,40%17. Đây là con số thấp so với yêu cầu phát triển ngành Chế biến nông sản trong bối cảnh hội nhập, khi mà các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ngày càng khắt khe, đòi hỏi lao động phải có trình độ chuyên môn và kỹ năng công nghệ cao.
Ba là, hạ tầng kỹ thuật và logistics phục vụ công nghiệp chế biến nông sản còn yếu kém, thiếu đồng bộ. Hệ thống kho lạnh, trung tâm logistics, giao thông kết nối giữa vùng nguyên liệu với các nhà máy chế biến và cảng xuất khẩu chưa được đầu tư đầy đủ. Theo thống kê, 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 1.461 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics, chiếm khoảng 4,39% số doanh nghiệp logistic của cả nước18. Bên cạnh đó, là vùng có tỷ lệ đường quốc lộ thấp, tổng chiều dài quốc lộ chỉ có 2.652,3 km, thấp hơn so với tỷ trọng diện tích và dân số19.
Bốn là, chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông sản còn dàn trải, thiếu đồng bộ và hiệu quả thực tiễn chưa cao. Các chính sách về tín dụng ưu đãi, thuế, hỗ trợ đầu tư, khuyến khích đổi mới công nghệ và phát triển vùng nguyên liệu tuy đã ban hành nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống do thủ tục phức tạp, nguồn lực hỗ trợ hạn chế và chưa tạo được động lực đủ mạnh để khuyến khích doanh nghiệp tham gia.
Năm là, công nghiệp chế biến nông sản của vùng chưa bắt kịp xu hướng phát triển bền vững và thích ứng với các yêu cầu mới của hội nhập quốc tế. Việc áp dụng các tiêu chuẩn xanh, tiêu chuẩn phát triển bền vững, giảm phát thải carbon, tuần hoàn hóa sản xuất còn rất hạn chế. Khả năng đáp ứng các rào cản kỹ thuật (TBT) và các biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS) trong thương mại quốc tế của nhiều doanh nghiệp chế biến trong vùng còn yếu, tiềm ẩn nguy cơ bị loại khỏi các chuỗi cung ứng toàn cầu.
Những hạn chế trên là rào cản lớn, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của công nghiệp chế biến nông sản Đồng bằng sông Cửu Long, ảnh hưởng đến mục tiêu nâng cao giá trị gia tăng và hội nhập sâu rộng vào thị trường thế giới.
3. Giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi những giải pháp đồng bộ, toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa vai trò quản lý nhà nước, nỗ lực của doanh nghiệp và sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội.
Thứ nhất, Nhà nước cần hoàn thiện thể chế chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nông sản theo hướng bền vững, hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách về đất đai, thuế, tín dụng, đầu tư, khoa học – công nghệ để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào chế biến nông sản. Tăng cường điều phối, lãnh đạo tập trung, đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ phát triển ngành chế biến. Đồng thời, cần xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu, quy hoạch hạ tầng logistics, khu công nghiệp chế biến gắn với định hướng phát triển chuỗi giá trị nông sản.
Thứ hai, tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị chế biến nhằm nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm. Doanh nghiệp cần đầu tư hệ thống dây chuyền chế biến hiện đại, áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ đóng gói thông minh, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Nhà nước cần có chương trình hỗ trợ tài chính, khuyến khích áp dụng công nghệ cao, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sản xuất xanh, thân thiện môi trường.
Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ ngành chế biến nông sản. Cần xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu về quản lý sản xuất, vận hành thiết bị hiện đại, kiểm soát chất lượng, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế và khả năng phát triển sản phẩm đổi mới sáng tạo. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp đào tạo lực lượng kỹ sư vận hành, người quản lý; tăng cường hợp tác với các cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học để xây dựng đội ngũ lao động chất lượng cao. Đồng thời, đẩy mạnh giáo dục nhận thức về hội nhập, đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và ý thức tuân thủ pháp luật trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
Thứ tư, phát triển hạ tầng logistics, hệ thống kho bãi, bảo quản lạnh đồng bộ để ổn định nguồn cung cấp nguyên liệu và hỗ trợ chế biến, xuất khẩu nông sản. Cần đầu tư xây dựng các trung tâm logistics liên kết vùng nguyên liệu với các nhà máy chế biến và cảng biển xuất khẩu; nâng cấp các tuyến giao thông huyết mạch; đầu tư hệ thống kho lạnh, bảo quản, bốc xếp, đóng gói theo chuẩn quốc tế để giảm thiểu hao hụt sau thu hoạch và tăng giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, cần xây dựng các trung tâm kiểm định, chứng nhận chất lượng và truy xuất nguồn gốc theo tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ năm, tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển thị trường xuất khẩu nông sản chế biến. Nhà nước cần hỗ trợ doanh nghiệp tham gia các hội chợ thương mại quốc tế, các sự kiện giao thương, trưng bày sản phẩm, tìm kiếm đối tác; khai thác tối đa các FTA đã ký kết, như: CPTPP, EVFTA, RCEP… để mở rộng thị trường và giảm thuế xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực nghiên cứu thị trường, phân tích nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng quốc tế để nhắm đúng phân khúc thị trường, xây dựng chiến lược phát triển sâu rộng vào các thị trường tiềm năng.
Thứ sáu, khuyến khích phát triển các mô hình sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị, tăng cường hợp tác liên kết giữa các tác nhân trong ngành, từ người sản xuất, doanh nghiệp chế biến, doanh nghiệp logistics đến hệ thống phân phối và tiêu thụ trong nước và quốc tế. Nhà nước cần ban hành các cơ chế chính sách cụ thể để thúc đẩy mô hình liên kết vùng, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, và bảo hiểm rủi ro cho các hợp tác xã, doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị; đồng thời xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ, minh bạch để điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích trong chuỗi, bảo đảm hài hòa lợi ích các bên và phát triển bền vững.
Những giải pháp trên cần được triển khai đồng bộ, có lộ trình cụ thể và gắn chặt với yêu cầu thực tiễn của từng địa phương, nhằm phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.
4. Kết luận
Phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu cấp thiết, nhằm nâng cao giá trị gia tăng nông sản, nâng cao năng lực cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận về quy mô, năng lực chế biến, chất lượng sản phẩm và xuất khẩu nhưng ngành Công nghiệp chế biến nông sản của vùng vẫn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những tồn tại này, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, từ hoàn thiện chính sách, phát triển hạ tầng, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng nhân lực, đến mở rộng thị trường và đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị. Sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ là yếu tố quyết định để công nghiệp chế biến nông sản Đồng bằng sông Cửu Long thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nông nghiệp hiện đại, bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chú thích:
1. Tiền Giang tập trung chế biến nông, thủy sản xuất khẩu. https://nhandan.vn/tien-giang-tap-trung-che-bien-nong-thuy-san-xuat-khau-
2. Sóc Trăng chú trọng chế biến sau nhiều mặt hàng nông sản. https://soctrang.dcs.vn/Soc-Trang-chu-trong-che-bien-sau-nhieu-mat-hang-nong-san
3. Tác giả tổng hợp số liệu từ Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood II. https://vinafood2.com.vn/profile/linh-vuc-hoat-dong, truy cập ngày 02/4/2025.
4. Giới thiệu tập đoàn, webiste Sao Mai group. https://saomaigroup.com/vn/gioi-thieu.html
5, 16, 17. Cục Thống kê thành phố Cần Thơ (2024). Niên giám thống kê thành phố Cần thơ 2023. H. NXB Thống kê, tr. 164, 221, 94.
6, 8, 11, 12, 13, 14. Cục Thống kê tỉnh Hậu Giang (2024). Niên giám thống kê tỉnh Hậu Giang 2023. H. NXB Thống kê, tr. 162, 123, 9, 115, 123, 92.
7, 15. Cục Thống kê tỉnh Sóc Trăng (2024). Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng 2023. H. NXB Thống kê, tr. 135, 109.
9. Phát triển bền vững ngành hàng cá tra. https://www.baodongthap.vn/kinh-te/phat-trien-ben-vung-nganh-hang-ca-tra-
10. Phát triển chăn nuôi liên kết, trang trại. https://baoangiang.com.vn/phat-trien-chan-nuoi-lien-ket-trang-trai-a384648.html
18. Hoàn thiện chuỗi dịch vụ logistics cho nông sản Đồng bằng sông Cửu Long. https://baoapbac.vn/kinh-te/202205/hoan-thien-chuoi-dich-vu-logistics-cho-nong-san-dong-bang-song-cuu-long
19. VCCI – Fulbright (2022). Báo cáo kinh tế thường niên Đồng bằng sông Cửu long năm 2022. NXB Đại học Cần Thơ, tr. 13.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2022). Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 287/QĐ-TTg ngày 28/02/2022 về việc phê duyệt quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
3. Thúc đẩy đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh và bền vững. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/827040/thuc-day-dong-bang-song-cuu-long-phat-trien-nhanh-va-ben-vung.aspx